SỰ NGU XUẨN CỦA CUỘC SỐNG 8
-Xét
được sống còn trong no đủ là mưu cầu cơ bản và ước nguyện chính đáng
của mọi cuộc đời, thì sẽ phân biệt được chiến tranh phi nghĩa và chiến
tranh chính nghĩa, sự phòng vệ chính đáng cũng như sự bắt buộc hạ sát
lực lượng đối kháng. Và khi phải hành động xả thân vì lẽ phải, con người
trở nên vô cùng cao quí.
-Nhưng xét trên bình diện đánh giá sự sống là thứ quí giá nhất trên đời, thì giết chóc lẫn nhau, dù là giết chóc bắt buộc, là hành động điên rồ tột bậc của con người và chiến tranh, dù là chiến tranh chính nghĩa, vẫn là sự ngu xuẩn vô hạn, dù là sự ngu xuẩn tự giác, nhân danh bảo vệ sự sống!
-Đứng lên trên tất cả mà phán xét, thì:
trí tuệ siêu việt của con người thậm ngu ngốc!
-Chân lý là đây:
Chiến tranh là mệnh lệnh tối thượng của tự nhiên mù quáng đối với trí tuệ sáng suốt của loài người: hãy giết chóc lẫn nhau!
-Như vậy, muốn không còn chiến tranh nữa, con người hoặc không còn lòng tham và tính tư hữu hoặc trở lại suy nghĩ tăm tối như hươu, nai.
-Nhưng hết chiến tranh rồi, xã hội loài người có hết bạo tàn?
-----------------------------------------------------------------
(ĐC sưu tầm trên NET)
Lịch sử của nhân loại chứng kiến không biết bao nhiêu cuộc chiến
tranh lớn nhỏ khác nhau. Có những cuộc nổ súng mang đầy mưu mô thôn
tính, lại có những cuộc chiến tranh vệ quốc rất oai hùng.
Tuy nhiên, không thiếu trận chiến mà nguyên nhân dẫn đến nó lại kỳ quặc đến khó tin. Và nổi bật nhất có lẽ là vụ giao tranh giữa quân đội Áo với... chính quân đội của nước mình.
Sự kiện xảy ra vào đêm ngày 21, rạng sáng ngày 22/9/1788, trong bối cảnh quân Áo đang trong cuộc chiến chống lại Đế quốc Ottoman (Thổ Nhĩ Kì ngày nay).
Khoảng 100.000 quân Áo dưới sự dẫn dắt của Hoàng đế Joseph II quyết định nghỉ chân tại thành phố Carancebes sau cuộc hành quân đêm. Quân lính lập trại trước dòng sông Timis để nghỉ ngơi, trong khi một toán lính tiên phong gồm các kỵ binh băng qua sông để thám thính tình hình.
Không thấy bất kỳ dấu hiệu nào của quân Thổ Nhĩ Kỳ, nhóm lính này tìm đến chỗ người Digan gần đó để mua rượu rồi ngồi uống cùng nhau.
Không thấy lính tuần tra trở về, một nhóm lính bộ binh vượt sông để tìm hiểu xem chuyện gì xảy ra thì phát hiện đồng đội mình đang no say.
Nhưng bất ngờ đã xảy ra, khi nhóm lính này ngỏ ý xin chút rượu, các kỵ binh chẳng mảy may quan tâm và tiếp tục cuộc vui của mình. Cả hai bên xảy ra cự cãi, xô xát. Tiếng súng đe dọa vang lên.
Sự việc đến đây chưa có gì là quá phức tạp. Câu chuyện chỉ rẽ sang hướng khác khi chẳng biết từ đâu cất lên tiếng gào: "Quân Thổ ! Quân Thổ !". Tưởng địch tới thật, cả bộ binh lẫn kỵ binh đều không màng tranh cãi nhau nữa mà hốt hoảng bơi về doanh trại.
Tại đây, tình hình bắt đầu trở nên hỗn loạn. Khi vị sĩ quan người Đức trấn tĩnh đoàn quân bằng tiếng mẹ đẻ: "Halt ! Halt !" (Dừng lại ! Dừng lại !), binh lính không biết tiếng Đức lại nghe thành: "Allah ! Allah !" mà tưởng rằng người Thổ Nhĩ Kỳ theo đạo Hồi đang tấn công.
Không chần chừ, tất cả quân lính nạp đạn rồi xả vào bóng tối, vì nghĩ rằng quân Thổ đang ở khắp mọi nơi, không hề biết rằng họ đang bắn vào đồng đội của mình. Thậm chí, chỉ huy người Áo trong tình hình nguy cấp còn ra lệnh cho pháo binh khai hỏa. Trận chiến chỉ kết thúc khi quân Áo quyết định rút lui khỏi... chính họ, để rồi nhận ra sau lưng mình chẳng có quân Thổ nào hết.
Trời sáng cũng là lúc cảnh tượng chết chóc hiện ra. Khoảng 10.000 quân Áo bị thương vong. Nhưng hậu quả không chỉ dừng lại ở đó. Hai ngày sau, quân Thổ Nhĩ Kỳ đích thực mới kéo tới và dễ dàng chiếm trọn Carancebes trước sự bất lực của quân Áo.
Trong lịch sử, những cuộc tranh đấu kiểu "quân ta đánh quân mình" do nhầm lẫn như trên được gọi là "hỏa lực thân thiện" (friendly fire), dù kết cục mà nó đem lại chẳng "thân thiện" chút nào.
Tham khảo: Livescience, World Atlas
Nguồn : Người đưa tin
Nhận xét: Những quân nhân này nhận ra họ đang tuân lệnh một chính quyền phát xít thảm sát chính đồng bào mình. Và lương tâm họ đã mách bảo họ nên làm gì.
Chiến tranh được định nghĩa như một cuộc tranh giành hơn thua, xung đột vũ trang vì quyền lực, chiếm đoạt lãnh thổ, áp đặt chủ nghĩa hay để trả thù, rửa hận. Nhiều nhóm người và dân tộc đã nhân danh nhiều thứ như tự do, độc lập, giải phóng… để mở cuộc chiến tranh. Dù với nhân danh nào, mục đích nào, giải phóng, áp đặt hay tự vệ hay bảo toàn lãnh thổ thì chiến tranh cũng đem lại chết chóc, tang tóc cho cả hai bên. Chúng ta đã thấy hàng trăm nghìn bia mộ, những vành khăn tang của cô nhi quả phụ, những nạng chống, những chiếc xe lăn của người thương tật, cùng với xóm làng điêu tàn, và những hậu quả để lại cho đời sống cả chục năm sau trên mặt địa cầu cũng như những dấu ấn sâu đậm trong tâm hồn con người.
“Túy ngọa sa trường quân mạc tiếu
Cổ lai chinh chiến kỷ nhân hồi?”
“Say chốn sa trường xin chớ mỉa
Xưa nay chinh chiến mấy ai về?”
Hai câu Ðường của Vương Hàn đã cho ta thấy nỗi xót xa của người chiến sĩ một lần đi không trở lại. Sau những khải hoàn môn kia, sau những vòng hoa chiến thắng, sau những ngày lễ khao quân, sau những ”tướng công thành” là những đống xương Vô Ðịnh, như hai câu sau đây của Bùi Hữu Nghĩa:
“Ðống xương vô định sương phơi trắng
Vũng máu phi thường nhuộm cỏ cây!”
Chúng tôi xin lấy thời điểm 1954 – sau khi đất nước chia cắt và sau đó vài năm chiến tranh giữa hai miền Nam Bắc bộc phát khốc liệt. Trong thời gian này chúng ta đã đọc được nhiều bài thơ viết về chiến tranh, phần lớn là của những người cầm súng. Ở đây chúng tôi chưa có dịp để trình bày với các bạn những bài thơ trong thời gian gọi là chống Mỹ cứu nước với lòng căm thù hung hãn của những người làm thơ để “biểu diễn lập trường.”
Với cái nhìn tổng quát, tôi xin nói về thơ chiến tranh của những thi sĩ, trong cuộc chiến tranh để bảo vệ miền Nam trong hơn hai mươi năm. Cũng xin nói thêm về danh từ phản chiến. Chỉ có những kẻ buôn súng mới thích chiến tranh, còn ngoài ra không ai yêu chiến tranh, ai cũng chống lại chiến tranh, mà người ta gọi bằng danh từ “ phản chiến.” Nhưng phản chiến không chỉ là đào ngũ, trốn lính, để trở thành hippy, bụi đời… mà phản chiến cũng có thể vẫn cầm súng và làm hết bổn phận công dân của mình.
Chúng ta có những nhà thơ phản chiến không mang danh nghĩa “bất phục tòng,” hiện diện trong quân đội, có mặt trên chiến trường và vẫn làm thơ lên án chiến tranh. Ðó là ưu điểm của nền văn nghệ miền Nam.
Trong những tác giả có thơ chiến tranh mà tôi trích dẫn nơi đây đã có người nằm xuống trong cuộc chiến, vì người thơ không sống nổi qua một cuộc chiến quá dài. Hiện nay việc sưu tập thơ trong chiến tranh đã gặp nhiều khó khăn và nhiều tài liệu đã thất lạc, qua bao nhiêu lần khổ nạn của đánh tư sản, thiêu hủy văn hóa phẩm, di tản, vượt biển.
Là người làm văn hóa, nhà văn, thi sĩ, họa sĩ, điêu khắc gia… chúng ta đã chia sẻ gì với đất nước, với con người về nỗi buồn của chiến tranh, cao hơn là nỗi đau đớn của chiến tranh.
Ðiều đáng ghi nhận là suốt trong những dòng thơ của những người miền Nam cầm súng, không thấy ai căm thù, không thấy ai cao giọng hô hào cho chủ nghĩa, không thấy ai đòi ăn gan uống máu quân thù. Họ coi chiến tranh như chuyện tất nhiên phải làm, một bổn phận đưa đẩy, thậm chí là một thứ trò chơi lớn, do đó những người thơ cầm súng cũng chấp nhận cái chết, sẽ đến bất ngờ, nếu có, một cách thư thái nhẹ nhàng.
Tôi ghi lại đây bốn cái nhìn về chiến tranh;
1. Thảm cảnh của chiến tranh,
2. Chiến tranh như một thứ trò chơi của số mệnh,
3. Lòng nhân ái trong thơ của người lính miền Nam,
4. Nỗi buồn của người lính sau chiến tranh.
1. Thảm cảnh của chiến tranh
Chiến tranh trước hết là địa ngục. Ở đó là máu lửa, bom đạn, chết chóc, mẹ góa con côi, què cụt… Mô tả chiến tranh thì mỗi người nhìn từ một góc cạnh, kẻ trực tiếp cầm súng làm chiến tranh, đối diện với kẻ thù, người là nạn nhân mất chồng, mất cha, người thấy chiến tranh hiện diện đe dọa cuộc sống bình thường trong thành phố. Chúng ta sẽ thấy nỗi bi thảm chiến tranh hiện diện thế nào trong thơ.
Mai Trung Tĩnh đã vẽ một bức tranh tổng thể về chiến tranh trên quê hương miền Nam, nơi ông đã sống và phục vụ trong quân đội trong bài thơ mang nhan đề “Quê Hương”:
“Những bình minh rớm máu
Những hoàng hôn nghĩa trang
Những ruộng đồng thi thể
Những núi đồi thịt xương
Khóc không còn nước mắt
Ăn không trọn bát cơm
Học chẳng thành ra học
Chơi không còn chỗ chơi
Tuổi trẻ uống đạn bom
Bao lần chưa biết đã
Bè bạn lá mùa thu
Rụng mỗi lần lả tả
Cái chết như tặng vật
Tình yêu quán nghỉ chân
Mười lăm trông mười bảy
Ba mươi nhìn năm mươi.”
Vào sâu từng hoàn cảnh, từng địa phương, chúng ta sẽ thấy chiến tranh nhìn từ mọi phía, nơi mặt trận đầy đạn bom, tại một đơn vị vừa có nhiều người cầm súng hy sinh, hay một góc nhà vĩnh biệt quạnh hiu. Với Trần Hoài Thư, người lính thám báo SÐ 22 BB, trực tiếp tham gia chiến tranh:
“Pháo chụp người gào khan cổ họng
Máy sôi tắt nghẹn chờ phi tuần
Miểng thép đâm xiên thằng bạn gục
Hỏa châu vàng thoi thóp triền sơn.”
Với Tô Thùy Yên, người lính làm thơ vùng sình lầy, sông rạch của miền Nam:
“Di tản khó – sâu dòi lúc nhúc
Trong vết thương người bạn nín rên
Người chết mấy ngày chưa lấy xác
Thây sình, mặt nát, lạch mương tanh,”
hay:
“Trời ơi những xác thây la liệt
Con ai, chồng ai, anh em ai?” (TTY)
Lan Sơn Ðài, một nhà thơ trẻ, đã viết những dòng thơ buồn sau đây trên tuần báo Khởi Hành năm 1969, khi chiến tranh tới hồi khốc liệt, lúc thoát chết mà không biết nên khóc hay nên cười:
“Khi tôi về theo đơn vị ở Tân Uyên,
đêm không bóng đèn, ngày chói chang nắng phủ
từng mùa trăng lùng địch tận chiến khu D,
những ngày nơi đây tôi không hy vọng được về
chết- nhất định tưởng rằng tôi sẽ chết
bao nhiêu đói rét – ôi nhọc nhằn hết sức,
vinh quang đâu – đời tôi đó hôm nay
bạn bè tôi, thằng hóa đá, đứa mây bay
đứa còn kẹt ở chiến khu một cánh tay, một bàn chân, dăm ba sợi tóc
điều không tưởng là tôi được thoát
nên biết cười hay nên khóc thế nào đây?”
Và với Trần Thuật Ngữ, chiến tranh là vô nghĩa và vô định:
“lòng theo chân bước mịt mờ
thịt xương ủ lạnh ngọn cờ đỏ tươi
từ đi theo vết máu người
ngủ trong tiếng nổ quên lời chim ca
người nằm trong đất xót xa
người đi trên đất xương da rã rời.”
Và đây, với Nguyễn Phúc Sông Hương, người lính đang thực sự chiến đấu trên mảnh đất đồng bằng Nam Bộ, thấy bạn bè ngã gục trước mắt mình:
“Ngày đầu nhảy xuống rừng An Lộc
Tuấn, Bé, Hùng, An đã giã từ
Ðành lấp hình hài khắc dấu đá
Quan tài chôn bạn chiếc poncho.”
“…Chỉ hai trăm mét mà xa lắm
Trảng trống đã rơi mấy chục người
Trảng trống, đời ta nhiều trảng trống
Và nhiều cao địa núi sông ơi!”
Ðây là câu hỏi của một người chiến binh khác, Ý Yên:
“Sau những đợt xung phong ào thác lũ
Còn lại gì, vườn trống cạnh nhà hoang?”
Ngy Hữu, một người lính làm thơ khác đã viết những lời trối trăn gần như tuyệt vọng:
“em biết không tháng ngày bom đạn phá
những thằng con trai chết tuổi hai mươi
anh nhìn lại bốn năm miền máu lửa
xót xa đầy hồn du tử em ơi.
“ngày mai anh về nghĩa trang quân đội
người lính còn ngồi ôm súng không em
xin đừng khóc nếu một lần em tới
vì với đời – anh tình nguyện quên tên.”
Cũng trong hoàn cảnh những chiếc quan tài người lính mới được đưa về hậu cứ hay ở quận lỵ heo hút, đôi khi chẳng có khói nhang, với cái nhìn của Tô Thùy Yên:
Áo quan phong quốc kỳ oanh liệt
Niềm thiên thu đầm cỗ xe tang
Quê nhà không tiện đường đưa tiễn
Nghĩa tận sơ sài đám lạnh tanh. (thơ TTY)
Nếu được vẽ một bức tranh về chiến tranh thì Thái Hải Ngạn sẽ vẽ như thế này:
“Vẽ quê hương khói đạn mù
Vẽ anh em với mắt thù bao năm
Vẽ em thơ chết trăng rằm
Vẽ đêm phố chợ điêu tàn gạch vôi.”
Ðối với Ðịnh Giang, không còn cả tương lai cho thế hệ mai sau:
“Mau lớn khôn đi con
Góp mặt cùng bè bạn
Ðêm nhìn nắng hỏa châu
Ngày nhìn mưa bom đạn”
… “Cha cuộc đời lính tráng
Mười năm vác súng rồi
Mỗi năm giờ sum họp
Ngắn hơn giờ chia phôi.”
Tống Châu An ghi lại nỗi buồn trong một đêm đi kích ở miền quê:
“Quê hương chinh chiến mù mù
Ðêm nghe chinh phụ à ời ru con.”
Trái với những người làm thơ ngoài mặt trận, Lê Thị Huệ nhìn chiến tranh ở hậu phương, trên phố phường qua những chướng ngại trên đường phố, đó là những lô cốt, với những cái nhìn phản chiến, hờn giận:
“Tôi lớn dậy cùng những lô cốt chắn đường,
Tử thủ phố phường ướt những đêm kinh con gái
Máu chảy lai láng chiến trường trong bản tin buổi sáng
Lô cốt. Lô cốt. Những hàng rào kẽm gai!
Gai đâm ngang mặt trời quê hương chiến tranh
Tôi không biết được mùi hương của những nụ hoa chanh
Nở cốm xanh trời việt Nam những trưa hè lưu tán
Họ để lại lô cốt những cái bướu trâu
Móc u óc khắp tử cung tôi thời hậu chiến
Chúng nổi tự bao giờ làm sao tôi hiểu thấu
Những lô cốt còn lại từ một cuộc chiến tranh.”
Ðây cũng là cái nhìn về chiến tranh qua đời sống người dân ở một quận lỵ miền Nam, qua thơ của Thạch Nhân:
“Buổi sáng nhìn những chuyến xe đò chạy vào quận lỵ
những chuyến xe chạy chậm hơn rùa
những mô đất cao, những ổ gà có thể
là bóng tử thần đang chờ đợi chúng ta
Buổi sáng nhìn những mái nhà, những ngôi chùa sụp đổ
ôi quả đạn nào vừa rơi trúng đêm qua
những xác người, những trái tim ngừng thở
đứa bé nhà ai khát sữa kêu la…”
Không chia sẻ, làm sao hiểu được nỗi đau của người trong cuộc, khi mất đi Ệ phần đời của mình như người quả phụ trong thơ Lê Thị Ý, chua xót với hình ảnh “anh lên lon mới giữ hai hàng nến trong”:
“Ngày mai đi nhận xác chồng
Say đi để nhớ mình không là mình.
Ngày mai đi nhận xác anh
Cuồng si một thuở hiển linh bây giờ.”
và Linh Phương, một người mà chúng ta biết rất ít, hiện ra một lần, rồi biến mất, nhưng những âm thanh còn lại để đời qua nhạc Phạm Duy, một bài thơ với những hình ảnh xót xa nhất của chiến tranh, được coi như một bài thơ phản chiến:
“Anh trở về trên chiếc băng ca
Trên trực thăng sơn màu tang trắng
Anh trở về chiều hoang trốn nắng
Poncho buồn liệm kín đời anh
Anh trở về bờ tóc em xanh
Chít khăn sô trên đầu vội vã, em ơi.”
2. Nhà thơ nhìn chiến tranh như một trò chơi
– Sống chết là số mệnh
Hầu hết những người làm thơ miền Nam là người cầm súng. Dù họ phản chiến, nghĩa là ghét chiến tranh, chống chiến tranh, hoặc coi chiến tranh như một điều phải làm, một điều không thể tránh. Bị động viên như một trạng thái thụ động, hay hăng hái tình nguyện vào lính vì yêu lý tưởng, vì không hèn, họ vẫn còn khí phách của những người trai. Ra trận, có nghĩa là cái chết đã gần kề, không nghe ai run sợ, mà vẫn nghe sự hào sảng, khí khái như Tô Thùy Yên sau đây
“Tới đây toàn những tay hào sảng
Sống chết khôn làm thắt ruột gan
Cũng không ai nhắc gì thân thế
Có vợ con mà như độc thân.
– Bạn hỏi thăm ta cho có lệ
Cuộc đời binh nghiệp – Ta cười bung
Còn mươi tháng nữa lên trung úy
Có thể ngày mai chữa biết chừng…”
Và đây, những suy nghĩ của Trần Hoài Thư trong một đêm chuẩn bị hành quân:
“Nửa đêm kẻng giục, quân ra trận
kinh động cả lòng đêm tối bưng
Nhận lấy chỉ ba ngày cơm gạo sấy
không buồn, chỉ một chút bâng khuâng.
Ðời ta là con số không vô tận
May trên đầu còn chiếc mũ rừng
mũ nhẹ nên coi đời cũng nhẹ
Chiến tranh. Thì cũng tựa phù vân (THT)
Nguyễn Bắc Sơn, người được coi như một nhà thơ phản chiến, cũng chỉ hơi thấy một chút buồn ngày ra trận:
“Ðêm nằm ngủ võng trên đồi cát
Nghe súng rừng xa nổ cắc cù
Chợt thấy trong lòng mình bát ngát
Nỗi buồn sương khói của mùa thu.
Mai ta đụng trận ta còn sống
Về ghé song Mao phá phách chơi
Chia sớt nỗi buồn cùng gái điếm
Ðốt tiền mua vội một ngày vui. (Nguyễn Bắc Sơn)
Trong bài “Tiệc Tẩy Trần của Những Thằng Sống Sót,” Nguyễn Bắc Sơn đã viết:
“Các bạn cũ những thằng nào vô phước,
Mồ đang xanh vì cuộc chiến hôm qua,
Hãy về đây mà say khướt cùng ta
Này bóng mây cao, này vòm lá thấp.”
Ðôi lúc giận đời cũng muốn chửi thề một tiếng:
“Chửi thề mấy tiếng trong tầm pháo
Thế hệ sinh lầm thuở rối ren!” (NBS)
– Lòng nhân ái trong chiến tranh:
Người lính trong chiến tranh có buồn không? Xa xa, trên đường chinh chiến gian nguy, không biết cái chết đang rình rập đâu đây, nhưng thơ của người lính miền Nam vẫn hào khí và đầy lòng nhân ái, như những câu thơ sau đây của Nguyễn Phúc Sông Hương, một đêm trăng tròn trên chiến địa:
Mấy tiếng tù và vang dưới lũng
Chắc là địch lạc, thổi tìm quân.
…Ðỉnh cao ta chẳng cần xin pháo
Ðể cho người sống trọn đêm rằm.
Ai đi đánh giặc mà không muốn tìm và diệt đối thủ, nhưng ý tưởng của Nguyễn Phúc Sông Hương cũng gần gũi với Nguyễn Bắc Sơn, coi chiến tranh như tai trời ách nước, chết sống đều do số mệnh an bài:
“Ta vốn hiền khô là lính cậu
Ði hành quân rượu đế vẫn mang theo
Mang trong đầu những ý nghĩ trong veo
Xem chiến cuộc như tai trời ách nước.
Ta bắn trúng ngươi vì ngươi bạc phước
Vì căn phần ngươi xui khiến đó thôi.”
Rõ ràng cuộc chiến như trò chơi, không căm hờn, không thù hận.
Trần Hoài Thư cũng đồng ý chiến tranh, chết sống là nghiệp số:
“Kẻ bỏ ra đi người ở lại
Chiến tranh thì cũng nghiệp oan chung.”
Tô Thùy Yên đã nói đến điều vô lý của chiến tranh trong bài thơ dài “Chiều Trên Phá Tam Giang”:
“Hỡi gã Cộng quân sốt rét, đói
Xích lời nguyền, sinh Bắc tử Nam.
Vì sao ngươi tới đây?
Vì sao ta tới đây?
Lòng xót xa, thân xác mỏi mòn
Dưới mắt ngươi làm tên lính ngụy.”
hay:
“Hỏi nhau chơi cho thỏa tính bông đùa
Ngươi cùng ta ai thật sự hy sinh
Cho tổ quốc Việt Nam – một tổ quốc…?
Các việc người làm, ngươi tưởng chừng ghê gớm lắm.
Các việc ta làm,
Ta xét thấy chẳng ra chi!”
Những nhà thơ miền Nam, không nghe ai kêu gào giết giặc như nhà thơ Chính Hữu của bên kia chiến tuyến, đó không phải là nỗi đau của chiến tranh, đó là hả dạ lòng căm thù:
“Mùa thu thây giặc chất sông núi,
Mùa hạ thây giặc phơi đầy đồng.”
Cùng một cái nhìn đối với những xác chết ngoài trận địa sau cơn giao tranh, Chính Hữu làm sao có được cái nhìn nhân ái đối với những con người đã nằm xuống ngoài trận địa, để có thể đặt câu hỏi như Trần Hoài Thư:
“Ai bạn ai thù sao quá thảm,
Trên một dòng cuồn cuộn oan gia”
hay pha chút đau đớn như Tô Thùy Yên:
“Trời ơi, những xác thây la liệt
Con ai, chồng ai, anh em ai?”
3. Chiến tranh chấm dứt những người thơ miền Nam nghĩ gì? Ðó là nỗi buồn chưa hết, nỗi buồn sau chiến tranh.
Rồi chiến tranh đột ngột chấm dứt, người ta dùng hình ảnh người lính bị bức tử phải buông súng, hay nói như nhà văn Cao Xuân Huy là gãy súng. Danh từ quân đội là tan hàng, danh từ điện ảnh là đứt phim. Sáu năm trước khi chiến tranh chấm dứt, Nguyễn Bắc Sơn đã nghĩ sẽ có một ngày:
“Cởi áo trận và hoa mai ném tuốt,
Xin giã từ đời vũ khí, huy chương
Xin trở về như một kẻ hoàn lương
Xin vứt hết, xin bắt đầu lại hết.”
và chúng ta, ai cũng có quyền mơ ước như Bùi Nghi Trang:
“ngày nào đó ta trả súng trở về
cha con ta vác sách thánh hiền, vác cần câu ra bờ ruộng.”
hay:
“ngày nào đó ta trả súng trở về,
ta sẽ kẻ lông mày cho hiền thê như Triệu Minh-Vô Kỵ”
Nhưng sau ngày 30 tháng 4, rõ ràng là những mơ ước đó không thành sự thật, và rất nhiều điều bất trắc đang chờ đợi người lính thất trận. Người lính không tiếc cấp bậc không tiếc danh vọng, nhưng có người đã tiếc một cuộc đời toan tính hy sinh cho hai chữ tự do, họ tiếc vì sự nghiệp nửa chừng dang dở. Giờ đây sau chiến tranh là nỗi nhớ chiến hữu, nhớ bạn, nhớ bè:
“Chiếc chiếu rượu bây giờ thành chiếu trống
Những người xưa giờ đã bỏ đi đâu
Còn lại mình tôi, cách nửa địa cầu
Con ngựa lạc đàn ngậm ngùi đất khách” (Trần Hoài Thư)
Ðẹp hơn cả, trong sự hối tiếc sau chiến tranh, là họ không còn che chở, chiến đấu được cho những người dân, những đồng bào trong vùng trách nhiệm, bất lực trước thời cuộc đổi thay quá nhanh chóng.
Người lính miền Nam “chân theo đoàn quân rút đi, nhưng tấm lòng còn ở lại” như ý thơ của Nguyễn Phúc Sông Hương, trong bài Nửa Hồn Xuân Lộc mà tôi xin trích dẫn một vài đoạn sau đây để kết thúc cho bài này:
…….
Hồn ta là kiếm sao không chém
Rạp ngã rừng xanh, bạt núi đồi.
Hỡi ơi! chân bước qua Bình Giã
Cẩm Mỹ nhà ai khói, ngậm ngùi!
Lửa cháy, cả lòng ta lửa cháy
Xóm làng Gia Kiệm nhớ khôn nguôi.
Ðêm nay Xuân Lộc, đoàn quân rút
Ðành biệt nhau, xin tạ lỗi người
Chao ơi tiếng tắc kè thê thiết
Kêu giữa đêm dài sợ lẻ loi,
Chân bước, nửa hồn chinh chiến giục
Nửa hồn Xuân Lộc gọi quay lui
Ta biết dưới hầm em đang khóc
Thét gầm pháo địch dập không thôi…
Tài liệu tham khảo:
– Tạp Chí Khởi Hành của Viên Linh (bộ cũ trước 1975)
– Trong dòng cảm thức văn học miền Nam (Trần Văn Nam – 2006)
– Thơ Văn Hiện Ðại (Uyên Thao – 1969)
– Tuyển tập thơ Trần Hoài Thư (2004)
-Nhưng xét trên bình diện đánh giá sự sống là thứ quí giá nhất trên đời, thì giết chóc lẫn nhau, dù là giết chóc bắt buộc, là hành động điên rồ tột bậc của con người và chiến tranh, dù là chiến tranh chính nghĩa, vẫn là sự ngu xuẩn vô hạn, dù là sự ngu xuẩn tự giác, nhân danh bảo vệ sự sống!
-Đứng lên trên tất cả mà phán xét, thì:
trí tuệ siêu việt của con người thậm ngu ngốc!
-Chân lý là đây:
Chiến tranh là mệnh lệnh tối thượng của tự nhiên mù quáng đối với trí tuệ sáng suốt của loài người: hãy giết chóc lẫn nhau!
-Như vậy, muốn không còn chiến tranh nữa, con người hoặc không còn lòng tham và tính tư hữu hoặc trở lại suy nghĩ tăm tối như hươu, nai.
-Nhưng hết chiến tranh rồi, xã hội loài người có hết bạo tàn?
-----------------------------------------------------------------
(ĐC sưu tầm trên NET)
Thirty Seconds To Mars - This Is War
Victory - Two Steps From Hell (Shinobi)
Trận chiến vô nghĩa nhất trong lịch sử thế giới: quân ta đánh quân mình mà mãi vẫn không hay biết
Một sự nhầm lẫn tai hại đẩy quân Áo vào cuộc giao tranh với chính mình.
Tuy nhiên, không thiếu trận chiến mà nguyên nhân dẫn đến nó lại kỳ quặc đến khó tin. Và nổi bật nhất có lẽ là vụ giao tranh giữa quân đội Áo với... chính quân đội của nước mình.
Sự kiện xảy ra vào đêm ngày 21, rạng sáng ngày 22/9/1788, trong bối cảnh quân Áo đang trong cuộc chiến chống lại Đế quốc Ottoman (Thổ Nhĩ Kì ngày nay).
Khoảng 100.000 quân Áo dưới sự dẫn dắt của Hoàng đế Joseph II quyết định nghỉ chân tại thành phố Carancebes sau cuộc hành quân đêm. Quân lính lập trại trước dòng sông Timis để nghỉ ngơi, trong khi một toán lính tiên phong gồm các kỵ binh băng qua sông để thám thính tình hình.
Không thấy bất kỳ dấu hiệu nào của quân Thổ Nhĩ Kỳ, nhóm lính này tìm đến chỗ người Digan gần đó để mua rượu rồi ngồi uống cùng nhau.
Không thấy lính tuần tra trở về, một nhóm lính bộ binh vượt sông để tìm hiểu xem chuyện gì xảy ra thì phát hiện đồng đội mình đang no say.
Nhưng bất ngờ đã xảy ra, khi nhóm lính này ngỏ ý xin chút rượu, các kỵ binh chẳng mảy may quan tâm và tiếp tục cuộc vui của mình. Cả hai bên xảy ra cự cãi, xô xát. Tiếng súng đe dọa vang lên.
Sự việc đến đây chưa có gì là quá phức tạp. Câu chuyện chỉ rẽ sang hướng khác khi chẳng biết từ đâu cất lên tiếng gào: "Quân Thổ ! Quân Thổ !". Tưởng địch tới thật, cả bộ binh lẫn kỵ binh đều không màng tranh cãi nhau nữa mà hốt hoảng bơi về doanh trại.
Tại đây, tình hình bắt đầu trở nên hỗn loạn. Khi vị sĩ quan người Đức trấn tĩnh đoàn quân bằng tiếng mẹ đẻ: "Halt ! Halt !" (Dừng lại ! Dừng lại !), binh lính không biết tiếng Đức lại nghe thành: "Allah ! Allah !" mà tưởng rằng người Thổ Nhĩ Kỳ theo đạo Hồi đang tấn công.
Không chần chừ, tất cả quân lính nạp đạn rồi xả vào bóng tối, vì nghĩ rằng quân Thổ đang ở khắp mọi nơi, không hề biết rằng họ đang bắn vào đồng đội của mình. Thậm chí, chỉ huy người Áo trong tình hình nguy cấp còn ra lệnh cho pháo binh khai hỏa. Trận chiến chỉ kết thúc khi quân Áo quyết định rút lui khỏi... chính họ, để rồi nhận ra sau lưng mình chẳng có quân Thổ nào hết.
Trời sáng cũng là lúc cảnh tượng chết chóc hiện ra. Khoảng 10.000 quân Áo bị thương vong. Nhưng hậu quả không chỉ dừng lại ở đó. Hai ngày sau, quân Thổ Nhĩ Kỳ đích thực mới kéo tới và dễ dàng chiếm trọn Carancebes trước sự bất lực của quân Áo.
Trong lịch sử, những cuộc tranh đấu kiểu "quân ta đánh quân mình" do nhầm lẫn như trên được gọi là "hỏa lực thân thiện" (friendly fire), dù kết cục mà nó đem lại chẳng "thân thiện" chút nào.
Tham khảo: Livescience, World Atlas
Two Steps From Hell - Star Sky *CINEMATIC*
Những cuộc chiến vô nghĩa và tốn kém nhất trong thế kỷ XX, XXI
Sự Kiện :
Thế giới 24h
Theo các chuyên gia,
lịch sử thế kỷ XX, XXI đã chứng kiến nhiều cuộc chiến tranh vô nghĩa,
tiêu tốn đến hàng nghìn tỷ USD - số tiền đủ để giải quyết triệt để nạn
đói trên thế giới nhiều lần.
1. Chiến tranh thế giới thứ I (1917-1921) - 334 tỷ USD
![]() |
| Thế chiến I. Ảnh minh họa: Internet |
Trong Thế chiến II, châu Âu chia làm hai phe gồm Anh, Pháp và các đồng minh, chống lại phe Đức, Bulgaria, Áo-Hung và Thổ Nhĩ Kỳ.
Tuy nhiên, sau khi tàu của Đức bắn hạ tàu hành
khách của Mỹ, quốc gia này đã kết thúc thời kỳ thu lợi khổng lồ từ giao
dịch vũ khí cho cả hai bên mà về phe đồng minh. Mỹ chính thức bước vào
cuộc chiến từ năm 1917.
2. Chiến tranh thế giới thứ II (1941-1945) - 4,1 nghìn tỷ USD
Thế chiến II chính thức nổ ra năm 1939 khi Đức
quốc xã phát động cuộc chiến chớp nhoáng với Ba Lan và nhanh chóng lan
rộng ra toàn châu Âu, khi Anh và Pháp tuyên chiến với Đức và Italy.
![]() |
| Chi phí cho Thế chiến II là 4.1 nghìn tỷ USD. Ảnh: Internet |
Mỹ tiếp tục đứng ngoài cuộc chiến và thu lợi từ
việc bán vũ khí. Năm 1941, sau khi Nhật bất ngờ tấn công Trân Châu Cảng,
Mỹ chính thức tham chiến và đứng về phe đồng minh. Cuối cùng, chiến
thắng đã thuộc về phe đồng minh và bom nguyên tử đã lần đầu tiên được sử
dụng.
3. Chiến tranh Triều Tiên (1950-1953) - 341 tỷ USD
Vào thời kỳ bắt đầu Chiến tranh Lạnh, Triều Tiên
chính là chiến trường đầu tiên. Hai miền của quốc gia này được chia đôi ở
vĩ tuyến 38 với nửa phía bắc có sự ủng hộ của Nga, Trung Quốc, trong
khi phía nam đứng đằng sau bởi Mỹ và đồng minh.
![]() |
| Triều Tiên là chiến trường đầu tiên của thời kỳ Chiến tranh lạnh |
Trong giai đoạn cao trào của cuộc chiến, Tướng Douglas MacArthur thậm chí đã cân nhắc có nên sử dụng bom nguyên tử hay không.
Sự tham gia cuộc chiến tranh Triều Tiên khiến Mỹ thiệt hại 341 tỷ USD và khoảng 34.000 người thiệt mạng.
4. Chiến tranh tại Việt Nam (1965-1975) - 738 tỷ USD
Cuộc chiến tranh phi nghĩa tại Việt Nam mà Mỹ
phát động là đỉnh cao của Chiến tranh Lạnh khi Washington dường như
không thể chấp nhận bất kỳ nhà nước Cộng sản nào tồn tại.
![]() |
| Cuộc chiến tranh phi nghĩa mà Mỹ tiến hành ở Việt Nam đã khiến nước này phải tiêu tốn 738 tỷ USD, đồng thời để lại "hội chứng Việt Nam" đối với nhiều người Mỹ. Ảnh: Flickr |
Cuối cùng, đế quốc số 1 thời bấy giờ đã thua
trong một cuộc chiến khó tin, cho dù họ đã khôn khéo rút bớt các lực
lượng quân sự của mình trước khi thất bại hoàn toàn. Trong cuộc chiến
này, Mỹ phải tiêu tốn 738 tỷ USD và hơn 58.000 quân nhân thiệt mạng.
5. Chiến tranh vùng Vịnh (1990-1991) - 102 tỷ USD
Dưới thời Saddam Hussein, Iraq đã xâm chiếm
Kuwait năm 1990 với lý do đây là một phần lãnh thổ của quốc gia này thay
vì nằm dưới quyền cai trị của Anh. Điều này đã de dọa nguồn cung dầu
của phương Tây, đặc biệt là khi Hussein đe dọa cả Ả Rập Saudi.
![]() |
Hoạt động của lực lượng liên quân do Mỹ đứng đầu
mang tên "Bão táp sa mạc" kéo dài 42 ngày và kết thúc bằng giải phóng
Kuwait và quân đội Iraq tháo lui. Hoạt động này đã khiến Mỹ mất 102 tỷ
USD và 298 quân nhân thiệt mạng.
6. Chiến dịch chống khủng bố sau sự kiện 11/9: 4.000 – 6.000 tỷ USD
Sau vụ khủng bố kinh hoàng nhằm vào nước Mỹ ngày
11/9/2001, Tổng thống Mỹ George W. Bush đã phát động "cuộc chiến chống
khủng bố" - chiến dịch "Nền tự do bền vững", được tiến hành ở
Afghanistan, Iraq, Pakistan, Somalia, Yemen, Indonesia và Philippines.
![]() |
Các chuyên gia trường Đại học Harvard ước tính
rằng sự tham gia của Mỹ trong cuộc chiến tại Iraq và Afghanistan tiêu
tốn khoảng 4.000 đến 6.000 tỷ USD, khiến cho "cuộc chiến chống khủng
bố"này thành xung đột quân sự tốn kém nhất trong lịch sử Mỹ.
Lê Huyền (tổng hợp)
Ameno - Era - Troy
Một
lần kia, có một đạo sĩ đi đến một cung điện, rồi nằm ngủ trên giường
của nhà vua. Khi nhà vua trở lại, ngài hỏi, 'Nhà ngươi là
ai?' Vị đạo sĩ nói, 'Chỉ là một người tầm thường!' 'Vậy tại sao một
người tầm thường lại ngủ trên giường của một người không tầm thường?' Vị
đạo sĩ trả lời, 'A... Nơi đây là khách sạn, nên tôi chỉ ngủ bất cứ nơi
nào tôi muốn, cho đến bao lâu tôi muốn.' Nhà vua nói, 'Nhưng ngươi
biết nơi đây là hoàng cung, không phải khách sạn.' Vị đạo sĩ nói, 'Ðó
là ý kiến riêng của ngài, nhưng theo ý tôi, đây là khách sạn!' Nhà vua
nói, 'Tại sao vậy?' Vị đạo sĩ trả lời, 'Trước khi ngài tuyên bố đây là
giường của ngài, thì nó là giường của ai? Ðây là chỗ của ai?' Nhà vua
nói, 'Nó thuộc về phụ hoàng của ta. Cha ta đã từng ngủ tại đây.' Vị đạo
sĩ nói, 'Ðược! Vậy trước vua cha thì là ai? Ai ở chỗ này?' 'Ồ! Ðó là
thái thượng hoàng của phụ vương.' 'Vậy trước thái thượng hoàng của phụ
vương ngài, thì là ai?' 'Một người khác.' 'Và trước một người khác thì
là ai?' 'Một vị vua khác.' Cho nên vị đạo sĩ nói, 'Vậy cái giường này
không chỉ thuộc về một người. Nếu nó không phải là khách sạn thì là
gì?'
Bây giờ, tất cả chúng ta đều tranh giành cái khách sạn vô thường này,
thật là tức cười. Tất cả chúng ta đều là hề nhưng không biết mình là
hề. Nhất là những người đang tranh giành cái gọi là mảnh đất của họ,
quốc gia của họ hay cái gọi là biên giới của họ; chính sách hay cái gọi
là lý tưởng quốc gia, bất cứ gì. Bất cứ là gì, nó không bao giờ vĩnh
cửu, đặc biệt trong thời này. Ngay cả những quốc gia có những việc như
bầu cử tổng thống, sau bốn hay năm năm, tối đa là tám năm, quý vị cũng
trở thành một người tầm thường trở lại.
Cho nên văn phòng tổng thống thật sự là một khách sạn. Thêm vào đó, cuộc đời này cũng là một khách sạn. Tôi đã nói với quý vị rất nhiều lần và điều này có khoa học chứng minh. Thí dụ, căn nhà này: Trước khi chúng ta đến đây, đã có những người khác ở đây. Rồi chúng ta thuê chỗ này, rồi trang hoàng nó; chúng ta biến nó thành khác hơn một chút. Nhưng nó vẫn là căn nhà đó. Sau chúng ta, có thể người khác sẽ đến và trang hoàng lại, rồi biến nó thành khác hơn, nhưng nó vẫn là căn nhà đó. Cho nên nó là một khách sạn, chỉ là loại khách sạn khác hơn một chút.
Nhưng vì khách sạn vô thường và tạm bợ này, chúng ta tranh giành lẫn nhau, chúng ta giết hại lẫn nhau, chúng ta bắn lẫn nhau! Ðiều này thật là thiếu thông minh, phải không? Quý vị sẽ thành người dại dột nếu làm vậy, phải không? [Khán thính giả: Dạ phải!] Tất cả thiên nhân trên trời nhìn xuống và thấy loại người gì đang sinh sống tại địa cầu này. Họ chắc chắn phải lắc đầu, tất cả thiên thần chắc chắn phải cảm thấy rất kỳ lạ. Họ không biết phải làm sao để bảo vệ chúng ta, bởi vì mọi người đều cầu nguyện để giết người khác. Các thiên thần chỉ đứng đó và cả hai bên đều cầu nguyện các thiên thần, 'Làm ơn cho tôi thắng trận này hay thắng phe bên kia, hay lấy được quốc gia của họ hay lấy được mỏ dầu hay mỏ kim cương của họ. Tôi muốn những thứ này!' Một bên cầu nguyện như vậy. Bên kia cũng cầu nguyện với các thiên thần, 'Xin bảo vệ mỏ dầu và mỏ kim cương của tôi.' Cho nên các vị thần phải làm sao bây giờ? Có thể họ sẽ trở về thiên đàng, nói với Thượng Ðế, 'Thượng Ðế ơi! Chúng tôi bỏ cuộc! Con của Ngài điên khùng quá! Chúng tôi làm sao bảo vệ người điên khùng được?' Và Thượng Ðế cũng không biết phải làm sao.
Trước đây tôi đã kể cho quý vị một chuyện vui: Một người cứ cầu nguyện hòa bình thế giới. Rồi sau một thời gian lâu, điều này không xảy ra. Cho nên ông than phiền với Thượng Ðế, 'Con đã cầu nguyện Ngài rất lâu để cho thế giới hòa bình. Tại sao điều này không bao giờ xảy ra? Ngài đang làm gì?' Rồi Thượng Ðế nói, 'Ồ! Xin lỗi! Chính Ta cũng đang cầu nguyện cho thế giới hòa bình đây!'
- Tim Qo Tu -
Cho nên văn phòng tổng thống thật sự là một khách sạn. Thêm vào đó, cuộc đời này cũng là một khách sạn. Tôi đã nói với quý vị rất nhiều lần và điều này có khoa học chứng minh. Thí dụ, căn nhà này: Trước khi chúng ta đến đây, đã có những người khác ở đây. Rồi chúng ta thuê chỗ này, rồi trang hoàng nó; chúng ta biến nó thành khác hơn một chút. Nhưng nó vẫn là căn nhà đó. Sau chúng ta, có thể người khác sẽ đến và trang hoàng lại, rồi biến nó thành khác hơn, nhưng nó vẫn là căn nhà đó. Cho nên nó là một khách sạn, chỉ là loại khách sạn khác hơn một chút.
Nhưng vì khách sạn vô thường và tạm bợ này, chúng ta tranh giành lẫn nhau, chúng ta giết hại lẫn nhau, chúng ta bắn lẫn nhau! Ðiều này thật là thiếu thông minh, phải không? Quý vị sẽ thành người dại dột nếu làm vậy, phải không? [Khán thính giả: Dạ phải!] Tất cả thiên nhân trên trời nhìn xuống và thấy loại người gì đang sinh sống tại địa cầu này. Họ chắc chắn phải lắc đầu, tất cả thiên thần chắc chắn phải cảm thấy rất kỳ lạ. Họ không biết phải làm sao để bảo vệ chúng ta, bởi vì mọi người đều cầu nguyện để giết người khác. Các thiên thần chỉ đứng đó và cả hai bên đều cầu nguyện các thiên thần, 'Làm ơn cho tôi thắng trận này hay thắng phe bên kia, hay lấy được quốc gia của họ hay lấy được mỏ dầu hay mỏ kim cương của họ. Tôi muốn những thứ này!' Một bên cầu nguyện như vậy. Bên kia cũng cầu nguyện với các thiên thần, 'Xin bảo vệ mỏ dầu và mỏ kim cương của tôi.' Cho nên các vị thần phải làm sao bây giờ? Có thể họ sẽ trở về thiên đàng, nói với Thượng Ðế, 'Thượng Ðế ơi! Chúng tôi bỏ cuộc! Con của Ngài điên khùng quá! Chúng tôi làm sao bảo vệ người điên khùng được?' Và Thượng Ðế cũng không biết phải làm sao.
Trước đây tôi đã kể cho quý vị một chuyện vui: Một người cứ cầu nguyện hòa bình thế giới. Rồi sau một thời gian lâu, điều này không xảy ra. Cho nên ông than phiền với Thượng Ðế, 'Con đã cầu nguyện Ngài rất lâu để cho thế giới hòa bình. Tại sao điều này không bao giờ xảy ra? Ngài đang làm gì?' Rồi Thượng Ðế nói, 'Ồ! Xin lỗi! Chính Ta cũng đang cầu nguyện cho thế giới hòa bình đây!'
- Tim Qo Tu -
Gladiator Theme • Now We Are Free • Hans Zimmer & Lisa Gerrard
Thế nào là “Chiến tranh”, “Chiến tranh chính nghĩa”, “Chiến tranh phi nghĩa”
Bàn
về Chiến tranh, chủ nghĩa Mác- Lê Nin đã viết: “Chiến tranh không bao
giờ xuất hiện như một cái gì riêng biệt, mà nó là một hiện tượng xã hội
cụ thể”.Cho dù chiến tranh mang một màu sắc chính trị nào đi chăng nữa
thì nó vẫn là kẻ thù số một của con người, bởi nó luôn đe dọa sự sống
của loài người.
1. Định nghĩa thế nào là chiến tranh
Chiến
tranh là một hiện tượng xã hội , chính trị được thể hiện ở cuộc đấu
tranh vũ trang giữa các nước hoặc giữa liên minh các nước. Mọi cuộc
chiến tranh xét về bản chất xã hội đều là sự tiếp tục chính trị bằng bạo
lực. Về mục đích chiến tranh có thể phân ra thành chiến tranh chính
nghĩa và chiến tranh phi nghĩa.
2. Thế nào là chiến tranh chính nghĩa
“Chiến
tranh chính nghĩa là cuộc chiến tranh của các dân tộc bị áp bức tiến
hành để giải phóng dân tộc thoát khỏi sự thống trị của nước ngoài hoặc
chiến tranh chống xâm lược bảo vệ nền độc lập tự do, tiến bộ xã hội”.
Ví
dụ1: Cuộc kháng chiến chống Pháp và chống Mĩ của nhân dân Việt Nam. Đây
là cuộc chiến tranh chính nghĩa mang tính chất là cuộc cách mạng giải
phóng dân tộc và bảo vệ nền độc lập của dân tộc. Cuộc kháng chiến thắng
lợi đã giải phóng hoàn toàn đất nước ta khỏi ách xâm lược của thực dân
Pháp và đế quốc Mĩ, đất nước ta giành được độc lập hoàn toàn. Thắng lợi
của cách mạng Việt Nam đã cổ vũ, thúc đẩy phong trào giải phóng dân tộc
trên thế giới phát triển mạnh mẽ, làm suy yếu hoàn toàn chủ nghĩa đế
quốc.
3. Thế nào là chiến tranh phi nghĩa
Các
cuộc chiến tranh lớn nhất, ác liệt nhất, có sức hủy diệt và tàn phá sự
sống của loài người nhất là hai cuộc chiến tranh thế giới I ( 1914-1918)
và Chiến tranh thế giới II ( 1939- 1945). Nguyên nhân nổ ra mỗi cuộc
chiến tranh là do mâu thuẫn chính trị không thể điều hòa được, buộc phải
dùng bạo lực để giải quyết mâu thuẫn giữa các phe phái trong cùng một
nước hoặc giữa các quốc gia với nhau, giữa liên minh quốc gia này với
liên minh quốc gia khác.Sự tiến hành bất kì cuộc chiến tranh nào cũng
đều do đường lối chính trị của các nước tham chiến quyết định. Ví dụ như
: Đức phát động cuộc Chiến tranh thế giới thứ II với âm mưu bá quyền,
thống trị nô dịch các dân tộc khác trên thế giới.
Căm ghét cuộc chiến tranh vô nghĩa, các sĩ quan hải quân Ukraine bỏ hàng ngũ sang Crimea
Kiev vừa tiết lộ bí mật về việc các sĩ quan Hải quân Ukraina thường xuyên xin nghỉ với "lý do gia đình".
Sự thật là các lính thủy Ukraina viện cớ để đi nghỉ ở Crưm. Kết luận do một nhóm quan chức đặc biệt của Hải quân nước này đưa ra. Kể từ đầu năm 2015, có 155 người đến bán đảo. Nhưng đây chỉ là số trường hợp đã bị phát hiện. Tất cả những người này đều vi phạm lệnh của Kiev cấm đến cái gọi là các "vùng lãnh thổ bị chiếm đóng."
Ủy ban còn xác nhận một thực tế phũ phàng: sự đào ngũ hàng loạt của quân nhân Lực lượng Hải quân Ukraina. Trong năm 2015, có 559 binh sĩ và sĩ quan đã tự tiện rời khỏi đơn vị. 122 người bị phát hiện và trả lại, số phận những người khác không rõ.
Con số thống kê của năm nay sẽ được bổ sung những họ tên mới. Chỉ trong vòng hai tháng, 87 lính thủy Ukraina đã bỏ trốn. 13 trường hợp bị phát hiện và trả lại đơn vị. Thực tế, nhiều quan chức hải quân cấp cao Ukraina đã làm ngơ trước tình hình, họ không tổ chức tìm kiếm những kẻ đào ngũ, thậm chí che giấu sự thật.
Không ít các quân nhân Ukraina sau khi đến Crưm đã quyết định không quay trở về. Thậm chí, họ bị phía Ukraina phát hiện khi đã gia nhập quân đội và hạm đội Nga. Nổi bật nhất là trường hợp của khoảng 50 lính thuộc lữ đoàn 10 Không quân Hải quân Ukraina. Năm 2014, họ rời khỏi Crưm, nhưng sau đó quay trở về và hiện đang phục vụ trong hàng ngũ Lực lượng Vũ trang Nga.
Sự thật là các lính thủy Ukraina viện cớ để đi nghỉ ở Crưm. Kết luận do một nhóm quan chức đặc biệt của Hải quân nước này đưa ra. Kể từ đầu năm 2015, có 155 người đến bán đảo. Nhưng đây chỉ là số trường hợp đã bị phát hiện. Tất cả những người này đều vi phạm lệnh của Kiev cấm đến cái gọi là các "vùng lãnh thổ bị chiếm đóng."
Ủy ban còn xác nhận một thực tế phũ phàng: sự đào ngũ hàng loạt của quân nhân Lực lượng Hải quân Ukraina. Trong năm 2015, có 559 binh sĩ và sĩ quan đã tự tiện rời khỏi đơn vị. 122 người bị phát hiện và trả lại, số phận những người khác không rõ.
Con số thống kê của năm nay sẽ được bổ sung những họ tên mới. Chỉ trong vòng hai tháng, 87 lính thủy Ukraina đã bỏ trốn. 13 trường hợp bị phát hiện và trả lại đơn vị. Thực tế, nhiều quan chức hải quân cấp cao Ukraina đã làm ngơ trước tình hình, họ không tổ chức tìm kiếm những kẻ đào ngũ, thậm chí che giấu sự thật.
Không ít các quân nhân Ukraina sau khi đến Crưm đã quyết định không quay trở về. Thậm chí, họ bị phía Ukraina phát hiện khi đã gia nhập quân đội và hạm đội Nga. Nổi bật nhất là trường hợp của khoảng 50 lính thuộc lữ đoàn 10 Không quân Hải quân Ukraina. Năm 2014, họ rời khỏi Crưm, nhưng sau đó quay trở về và hiện đang phục vụ trong hàng ngũ Lực lượng Vũ trang Nga.
Nhận xét: Những quân nhân này nhận ra họ đang tuân lệnh một chính quyền phát xít thảm sát chính đồng bào mình. Và lương tâm họ đã mách bảo họ nên làm gì.
Fury |2014| All Tank Battles [Edited] (WWII April 25, 1945)
Nỗi buồn chiến tranh qua thi ca miền Nam (1960-1975)
Huy Phương
Chiến tranh được định nghĩa như một cuộc tranh giành hơn thua, xung đột vũ trang vì quyền lực, chiếm đoạt lãnh thổ, áp đặt chủ nghĩa hay để trả thù, rửa hận. Nhiều nhóm người và dân tộc đã nhân danh nhiều thứ như tự do, độc lập, giải phóng… để mở cuộc chiến tranh. Dù với nhân danh nào, mục đích nào, giải phóng, áp đặt hay tự vệ hay bảo toàn lãnh thổ thì chiến tranh cũng đem lại chết chóc, tang tóc cho cả hai bên. Chúng ta đã thấy hàng trăm nghìn bia mộ, những vành khăn tang của cô nhi quả phụ, những nạng chống, những chiếc xe lăn của người thương tật, cùng với xóm làng điêu tàn, và những hậu quả để lại cho đời sống cả chục năm sau trên mặt địa cầu cũng như những dấu ấn sâu đậm trong tâm hồn con người.
“Túy ngọa sa trường quân mạc tiếu
Cổ lai chinh chiến kỷ nhân hồi?”
“Say chốn sa trường xin chớ mỉa
Xưa nay chinh chiến mấy ai về?”
Hai câu Ðường của Vương Hàn đã cho ta thấy nỗi xót xa của người chiến sĩ một lần đi không trở lại. Sau những khải hoàn môn kia, sau những vòng hoa chiến thắng, sau những ngày lễ khao quân, sau những ”tướng công thành” là những đống xương Vô Ðịnh, như hai câu sau đây của Bùi Hữu Nghĩa:
“Ðống xương vô định sương phơi trắng
Vũng máu phi thường nhuộm cỏ cây!”
Chúng tôi xin lấy thời điểm 1954 – sau khi đất nước chia cắt và sau đó vài năm chiến tranh giữa hai miền Nam Bắc bộc phát khốc liệt. Trong thời gian này chúng ta đã đọc được nhiều bài thơ viết về chiến tranh, phần lớn là của những người cầm súng. Ở đây chúng tôi chưa có dịp để trình bày với các bạn những bài thơ trong thời gian gọi là chống Mỹ cứu nước với lòng căm thù hung hãn của những người làm thơ để “biểu diễn lập trường.”
Với cái nhìn tổng quát, tôi xin nói về thơ chiến tranh của những thi sĩ, trong cuộc chiến tranh để bảo vệ miền Nam trong hơn hai mươi năm. Cũng xin nói thêm về danh từ phản chiến. Chỉ có những kẻ buôn súng mới thích chiến tranh, còn ngoài ra không ai yêu chiến tranh, ai cũng chống lại chiến tranh, mà người ta gọi bằng danh từ “ phản chiến.” Nhưng phản chiến không chỉ là đào ngũ, trốn lính, để trở thành hippy, bụi đời… mà phản chiến cũng có thể vẫn cầm súng và làm hết bổn phận công dân của mình.
Chúng ta có những nhà thơ phản chiến không mang danh nghĩa “bất phục tòng,” hiện diện trong quân đội, có mặt trên chiến trường và vẫn làm thơ lên án chiến tranh. Ðó là ưu điểm của nền văn nghệ miền Nam.
Trong những tác giả có thơ chiến tranh mà tôi trích dẫn nơi đây đã có người nằm xuống trong cuộc chiến, vì người thơ không sống nổi qua một cuộc chiến quá dài. Hiện nay việc sưu tập thơ trong chiến tranh đã gặp nhiều khó khăn và nhiều tài liệu đã thất lạc, qua bao nhiêu lần khổ nạn của đánh tư sản, thiêu hủy văn hóa phẩm, di tản, vượt biển.
Là người làm văn hóa, nhà văn, thi sĩ, họa sĩ, điêu khắc gia… chúng ta đã chia sẻ gì với đất nước, với con người về nỗi buồn của chiến tranh, cao hơn là nỗi đau đớn của chiến tranh.
Ðiều đáng ghi nhận là suốt trong những dòng thơ của những người miền Nam cầm súng, không thấy ai căm thù, không thấy ai cao giọng hô hào cho chủ nghĩa, không thấy ai đòi ăn gan uống máu quân thù. Họ coi chiến tranh như chuyện tất nhiên phải làm, một bổn phận đưa đẩy, thậm chí là một thứ trò chơi lớn, do đó những người thơ cầm súng cũng chấp nhận cái chết, sẽ đến bất ngờ, nếu có, một cách thư thái nhẹ nhàng.
Tôi ghi lại đây bốn cái nhìn về chiến tranh;
1. Thảm cảnh của chiến tranh,
2. Chiến tranh như một thứ trò chơi của số mệnh,
3. Lòng nhân ái trong thơ của người lính miền Nam,
4. Nỗi buồn của người lính sau chiến tranh.
1. Thảm cảnh của chiến tranh
Chiến tranh trước hết là địa ngục. Ở đó là máu lửa, bom đạn, chết chóc, mẹ góa con côi, què cụt… Mô tả chiến tranh thì mỗi người nhìn từ một góc cạnh, kẻ trực tiếp cầm súng làm chiến tranh, đối diện với kẻ thù, người là nạn nhân mất chồng, mất cha, người thấy chiến tranh hiện diện đe dọa cuộc sống bình thường trong thành phố. Chúng ta sẽ thấy nỗi bi thảm chiến tranh hiện diện thế nào trong thơ.
Mai Trung Tĩnh đã vẽ một bức tranh tổng thể về chiến tranh trên quê hương miền Nam, nơi ông đã sống và phục vụ trong quân đội trong bài thơ mang nhan đề “Quê Hương”:
“Những bình minh rớm máu
Những hoàng hôn nghĩa trang
Những ruộng đồng thi thể
Những núi đồi thịt xương
Khóc không còn nước mắt
Ăn không trọn bát cơm
Học chẳng thành ra học
Chơi không còn chỗ chơi
Tuổi trẻ uống đạn bom
Bao lần chưa biết đã
Bè bạn lá mùa thu
Rụng mỗi lần lả tả
Cái chết như tặng vật
Tình yêu quán nghỉ chân
Mười lăm trông mười bảy
Ba mươi nhìn năm mươi.”
Vào sâu từng hoàn cảnh, từng địa phương, chúng ta sẽ thấy chiến tranh nhìn từ mọi phía, nơi mặt trận đầy đạn bom, tại một đơn vị vừa có nhiều người cầm súng hy sinh, hay một góc nhà vĩnh biệt quạnh hiu. Với Trần Hoài Thư, người lính thám báo SÐ 22 BB, trực tiếp tham gia chiến tranh:
“Pháo chụp người gào khan cổ họng
Máy sôi tắt nghẹn chờ phi tuần
Miểng thép đâm xiên thằng bạn gục
Hỏa châu vàng thoi thóp triền sơn.”
Với Tô Thùy Yên, người lính làm thơ vùng sình lầy, sông rạch của miền Nam:
“Di tản khó – sâu dòi lúc nhúc
Trong vết thương người bạn nín rên
Người chết mấy ngày chưa lấy xác
Thây sình, mặt nát, lạch mương tanh,”
hay:
“Trời ơi những xác thây la liệt
Con ai, chồng ai, anh em ai?” (TTY)
Lan Sơn Ðài, một nhà thơ trẻ, đã viết những dòng thơ buồn sau đây trên tuần báo Khởi Hành năm 1969, khi chiến tranh tới hồi khốc liệt, lúc thoát chết mà không biết nên khóc hay nên cười:
“Khi tôi về theo đơn vị ở Tân Uyên,
đêm không bóng đèn, ngày chói chang nắng phủ
từng mùa trăng lùng địch tận chiến khu D,
những ngày nơi đây tôi không hy vọng được về
chết- nhất định tưởng rằng tôi sẽ chết
bao nhiêu đói rét – ôi nhọc nhằn hết sức,
vinh quang đâu – đời tôi đó hôm nay
bạn bè tôi, thằng hóa đá, đứa mây bay
đứa còn kẹt ở chiến khu một cánh tay, một bàn chân, dăm ba sợi tóc
điều không tưởng là tôi được thoát
nên biết cười hay nên khóc thế nào đây?”
Và với Trần Thuật Ngữ, chiến tranh là vô nghĩa và vô định:
“lòng theo chân bước mịt mờ
thịt xương ủ lạnh ngọn cờ đỏ tươi
từ đi theo vết máu người
ngủ trong tiếng nổ quên lời chim ca
người nằm trong đất xót xa
người đi trên đất xương da rã rời.”
Và đây, với Nguyễn Phúc Sông Hương, người lính đang thực sự chiến đấu trên mảnh đất đồng bằng Nam Bộ, thấy bạn bè ngã gục trước mắt mình:
“Ngày đầu nhảy xuống rừng An Lộc
Tuấn, Bé, Hùng, An đã giã từ
Ðành lấp hình hài khắc dấu đá
Quan tài chôn bạn chiếc poncho.”
“…Chỉ hai trăm mét mà xa lắm
Trảng trống đã rơi mấy chục người
Trảng trống, đời ta nhiều trảng trống
Và nhiều cao địa núi sông ơi!”
Ðây là câu hỏi của một người chiến binh khác, Ý Yên:
“Sau những đợt xung phong ào thác lũ
Còn lại gì, vườn trống cạnh nhà hoang?”
Ngy Hữu, một người lính làm thơ khác đã viết những lời trối trăn gần như tuyệt vọng:
“em biết không tháng ngày bom đạn phá
những thằng con trai chết tuổi hai mươi
anh nhìn lại bốn năm miền máu lửa
xót xa đầy hồn du tử em ơi.
“ngày mai anh về nghĩa trang quân đội
người lính còn ngồi ôm súng không em
xin đừng khóc nếu một lần em tới
vì với đời – anh tình nguyện quên tên.”
Cũng trong hoàn cảnh những chiếc quan tài người lính mới được đưa về hậu cứ hay ở quận lỵ heo hút, đôi khi chẳng có khói nhang, với cái nhìn của Tô Thùy Yên:
Áo quan phong quốc kỳ oanh liệt
Niềm thiên thu đầm cỗ xe tang
Quê nhà không tiện đường đưa tiễn
Nghĩa tận sơ sài đám lạnh tanh. (thơ TTY)
Nếu được vẽ một bức tranh về chiến tranh thì Thái Hải Ngạn sẽ vẽ như thế này:
“Vẽ quê hương khói đạn mù
Vẽ anh em với mắt thù bao năm
Vẽ em thơ chết trăng rằm
Vẽ đêm phố chợ điêu tàn gạch vôi.”
Ðối với Ðịnh Giang, không còn cả tương lai cho thế hệ mai sau:
“Mau lớn khôn đi con
Góp mặt cùng bè bạn
Ðêm nhìn nắng hỏa châu
Ngày nhìn mưa bom đạn”
… “Cha cuộc đời lính tráng
Mười năm vác súng rồi
Mỗi năm giờ sum họp
Ngắn hơn giờ chia phôi.”
Tống Châu An ghi lại nỗi buồn trong một đêm đi kích ở miền quê:
“Quê hương chinh chiến mù mù
Ðêm nghe chinh phụ à ời ru con.”
Trái với những người làm thơ ngoài mặt trận, Lê Thị Huệ nhìn chiến tranh ở hậu phương, trên phố phường qua những chướng ngại trên đường phố, đó là những lô cốt, với những cái nhìn phản chiến, hờn giận:
“Tôi lớn dậy cùng những lô cốt chắn đường,
Tử thủ phố phường ướt những đêm kinh con gái
Máu chảy lai láng chiến trường trong bản tin buổi sáng
Lô cốt. Lô cốt. Những hàng rào kẽm gai!
Gai đâm ngang mặt trời quê hương chiến tranh
Tôi không biết được mùi hương của những nụ hoa chanh
Nở cốm xanh trời việt Nam những trưa hè lưu tán
Họ để lại lô cốt những cái bướu trâu
Móc u óc khắp tử cung tôi thời hậu chiến
Chúng nổi tự bao giờ làm sao tôi hiểu thấu
Những lô cốt còn lại từ một cuộc chiến tranh.”
Ðây cũng là cái nhìn về chiến tranh qua đời sống người dân ở một quận lỵ miền Nam, qua thơ của Thạch Nhân:
“Buổi sáng nhìn những chuyến xe đò chạy vào quận lỵ
những chuyến xe chạy chậm hơn rùa
những mô đất cao, những ổ gà có thể
là bóng tử thần đang chờ đợi chúng ta
Buổi sáng nhìn những mái nhà, những ngôi chùa sụp đổ
ôi quả đạn nào vừa rơi trúng đêm qua
những xác người, những trái tim ngừng thở
đứa bé nhà ai khát sữa kêu la…”
Không chia sẻ, làm sao hiểu được nỗi đau của người trong cuộc, khi mất đi Ệ phần đời của mình như người quả phụ trong thơ Lê Thị Ý, chua xót với hình ảnh “anh lên lon mới giữ hai hàng nến trong”:
“Ngày mai đi nhận xác chồng
Say đi để nhớ mình không là mình.
Ngày mai đi nhận xác anh
Cuồng si một thuở hiển linh bây giờ.”
và Linh Phương, một người mà chúng ta biết rất ít, hiện ra một lần, rồi biến mất, nhưng những âm thanh còn lại để đời qua nhạc Phạm Duy, một bài thơ với những hình ảnh xót xa nhất của chiến tranh, được coi như một bài thơ phản chiến:
“Anh trở về trên chiếc băng ca
Trên trực thăng sơn màu tang trắng
Anh trở về chiều hoang trốn nắng
Poncho buồn liệm kín đời anh
Anh trở về bờ tóc em xanh
Chít khăn sô trên đầu vội vã, em ơi.”
2. Nhà thơ nhìn chiến tranh như một trò chơi
– Sống chết là số mệnh
Hầu hết những người làm thơ miền Nam là người cầm súng. Dù họ phản chiến, nghĩa là ghét chiến tranh, chống chiến tranh, hoặc coi chiến tranh như một điều phải làm, một điều không thể tránh. Bị động viên như một trạng thái thụ động, hay hăng hái tình nguyện vào lính vì yêu lý tưởng, vì không hèn, họ vẫn còn khí phách của những người trai. Ra trận, có nghĩa là cái chết đã gần kề, không nghe ai run sợ, mà vẫn nghe sự hào sảng, khí khái như Tô Thùy Yên sau đây
“Tới đây toàn những tay hào sảng
Sống chết khôn làm thắt ruột gan
Cũng không ai nhắc gì thân thế
Có vợ con mà như độc thân.
– Bạn hỏi thăm ta cho có lệ
Cuộc đời binh nghiệp – Ta cười bung
Còn mươi tháng nữa lên trung úy
Có thể ngày mai chữa biết chừng…”
Và đây, những suy nghĩ của Trần Hoài Thư trong một đêm chuẩn bị hành quân:
“Nửa đêm kẻng giục, quân ra trận
kinh động cả lòng đêm tối bưng
Nhận lấy chỉ ba ngày cơm gạo sấy
không buồn, chỉ một chút bâng khuâng.
Ðời ta là con số không vô tận
May trên đầu còn chiếc mũ rừng
mũ nhẹ nên coi đời cũng nhẹ
Chiến tranh. Thì cũng tựa phù vân (THT)
Nguyễn Bắc Sơn, người được coi như một nhà thơ phản chiến, cũng chỉ hơi thấy một chút buồn ngày ra trận:
“Ðêm nằm ngủ võng trên đồi cát
Nghe súng rừng xa nổ cắc cù
Chợt thấy trong lòng mình bát ngát
Nỗi buồn sương khói của mùa thu.
Mai ta đụng trận ta còn sống
Về ghé song Mao phá phách chơi
Chia sớt nỗi buồn cùng gái điếm
Ðốt tiền mua vội một ngày vui. (Nguyễn Bắc Sơn)
Trong bài “Tiệc Tẩy Trần của Những Thằng Sống Sót,” Nguyễn Bắc Sơn đã viết:
“Các bạn cũ những thằng nào vô phước,
Mồ đang xanh vì cuộc chiến hôm qua,
Hãy về đây mà say khướt cùng ta
Này bóng mây cao, này vòm lá thấp.”
Ðôi lúc giận đời cũng muốn chửi thề một tiếng:
“Chửi thề mấy tiếng trong tầm pháo
Thế hệ sinh lầm thuở rối ren!” (NBS)
– Lòng nhân ái trong chiến tranh:
Người lính trong chiến tranh có buồn không? Xa xa, trên đường chinh chiến gian nguy, không biết cái chết đang rình rập đâu đây, nhưng thơ của người lính miền Nam vẫn hào khí và đầy lòng nhân ái, như những câu thơ sau đây của Nguyễn Phúc Sông Hương, một đêm trăng tròn trên chiến địa:
Mấy tiếng tù và vang dưới lũng
Chắc là địch lạc, thổi tìm quân.
…Ðỉnh cao ta chẳng cần xin pháo
Ðể cho người sống trọn đêm rằm.
Ai đi đánh giặc mà không muốn tìm và diệt đối thủ, nhưng ý tưởng của Nguyễn Phúc Sông Hương cũng gần gũi với Nguyễn Bắc Sơn, coi chiến tranh như tai trời ách nước, chết sống đều do số mệnh an bài:
“Ta vốn hiền khô là lính cậu
Ði hành quân rượu đế vẫn mang theo
Mang trong đầu những ý nghĩ trong veo
Xem chiến cuộc như tai trời ách nước.
Ta bắn trúng ngươi vì ngươi bạc phước
Vì căn phần ngươi xui khiến đó thôi.”
Rõ ràng cuộc chiến như trò chơi, không căm hờn, không thù hận.
Trần Hoài Thư cũng đồng ý chiến tranh, chết sống là nghiệp số:
“Kẻ bỏ ra đi người ở lại
Chiến tranh thì cũng nghiệp oan chung.”
Tô Thùy Yên đã nói đến điều vô lý của chiến tranh trong bài thơ dài “Chiều Trên Phá Tam Giang”:
“Hỡi gã Cộng quân sốt rét, đói
Xích lời nguyền, sinh Bắc tử Nam.
Vì sao ngươi tới đây?
Vì sao ta tới đây?
Lòng xót xa, thân xác mỏi mòn
Dưới mắt ngươi làm tên lính ngụy.”
hay:
“Hỏi nhau chơi cho thỏa tính bông đùa
Ngươi cùng ta ai thật sự hy sinh
Cho tổ quốc Việt Nam – một tổ quốc…?
Các việc người làm, ngươi tưởng chừng ghê gớm lắm.
Các việc ta làm,
Ta xét thấy chẳng ra chi!”
Những nhà thơ miền Nam, không nghe ai kêu gào giết giặc như nhà thơ Chính Hữu của bên kia chiến tuyến, đó không phải là nỗi đau của chiến tranh, đó là hả dạ lòng căm thù:
“Mùa thu thây giặc chất sông núi,
Mùa hạ thây giặc phơi đầy đồng.”
Cùng một cái nhìn đối với những xác chết ngoài trận địa sau cơn giao tranh, Chính Hữu làm sao có được cái nhìn nhân ái đối với những con người đã nằm xuống ngoài trận địa, để có thể đặt câu hỏi như Trần Hoài Thư:
“Ai bạn ai thù sao quá thảm,
Trên một dòng cuồn cuộn oan gia”
hay pha chút đau đớn như Tô Thùy Yên:
“Trời ơi, những xác thây la liệt
Con ai, chồng ai, anh em ai?”
3. Chiến tranh chấm dứt những người thơ miền Nam nghĩ gì? Ðó là nỗi buồn chưa hết, nỗi buồn sau chiến tranh.
Rồi chiến tranh đột ngột chấm dứt, người ta dùng hình ảnh người lính bị bức tử phải buông súng, hay nói như nhà văn Cao Xuân Huy là gãy súng. Danh từ quân đội là tan hàng, danh từ điện ảnh là đứt phim. Sáu năm trước khi chiến tranh chấm dứt, Nguyễn Bắc Sơn đã nghĩ sẽ có một ngày:
“Cởi áo trận và hoa mai ném tuốt,
Xin giã từ đời vũ khí, huy chương
Xin trở về như một kẻ hoàn lương
Xin vứt hết, xin bắt đầu lại hết.”
và chúng ta, ai cũng có quyền mơ ước như Bùi Nghi Trang:
“ngày nào đó ta trả súng trở về
cha con ta vác sách thánh hiền, vác cần câu ra bờ ruộng.”
hay:
“ngày nào đó ta trả súng trở về,
ta sẽ kẻ lông mày cho hiền thê như Triệu Minh-Vô Kỵ”
Nhưng sau ngày 30 tháng 4, rõ ràng là những mơ ước đó không thành sự thật, và rất nhiều điều bất trắc đang chờ đợi người lính thất trận. Người lính không tiếc cấp bậc không tiếc danh vọng, nhưng có người đã tiếc một cuộc đời toan tính hy sinh cho hai chữ tự do, họ tiếc vì sự nghiệp nửa chừng dang dở. Giờ đây sau chiến tranh là nỗi nhớ chiến hữu, nhớ bạn, nhớ bè:
“Chiếc chiếu rượu bây giờ thành chiếu trống
Những người xưa giờ đã bỏ đi đâu
Còn lại mình tôi, cách nửa địa cầu
Con ngựa lạc đàn ngậm ngùi đất khách” (Trần Hoài Thư)
Ðẹp hơn cả, trong sự hối tiếc sau chiến tranh, là họ không còn che chở, chiến đấu được cho những người dân, những đồng bào trong vùng trách nhiệm, bất lực trước thời cuộc đổi thay quá nhanh chóng.
Người lính miền Nam “chân theo đoàn quân rút đi, nhưng tấm lòng còn ở lại” như ý thơ của Nguyễn Phúc Sông Hương, trong bài Nửa Hồn Xuân Lộc mà tôi xin trích dẫn một vài đoạn sau đây để kết thúc cho bài này:
…….
Hồn ta là kiếm sao không chém
Rạp ngã rừng xanh, bạt núi đồi.
Hỡi ơi! chân bước qua Bình Giã
Cẩm Mỹ nhà ai khói, ngậm ngùi!
Lửa cháy, cả lòng ta lửa cháy
Xóm làng Gia Kiệm nhớ khôn nguôi.
Ðêm nay Xuân Lộc, đoàn quân rút
Ðành biệt nhau, xin tạ lỗi người
Chao ơi tiếng tắc kè thê thiết
Kêu giữa đêm dài sợ lẻ loi,
Chân bước, nửa hồn chinh chiến giục
Nửa hồn Xuân Lộc gọi quay lui
Ta biết dưới hầm em đang khóc
Thét gầm pháo địch dập không thôi…
Tài liệu tham khảo:
– Tạp Chí Khởi Hành của Viên Linh (bộ cũ trước 1975)
– Trong dòng cảm thức văn học miền Nam (Trần Văn Nam – 2006)
– Thơ Văn Hiện Ðại (Uyên Thao – 1969)
– Tuyển tập thơ Trần Hoài Thư (2004)










Nhận xét
Đăng nhận xét