Dai Chung la su suy ngam cua toi ve cuoc doi, xa hoi, nhan sinh
KÝ ỨC CHÓI LỌI 69
Nhận đường liên kết
Facebook
X
Pinterest
Email
Ứng dụng khác
-
(ĐC sưu tầm trên NET)
Khâm phục nghệ thuật nghi binh tài tình chỉ có ở Việt Nam
Trận nghi binh kỳ thú mở màn Chiến dịch Tây Nguyên 1975
Tròn 40 năm trước, 14 giờ ngày 28-2-1975, trận đánh nghi binh, lừa địch mở màn Chiến dịch Tây Nguyên mùa Xuân 1975 bắt đầu.
Các loại hỏa lực của Sư đoàn 968 đồng loạt bắn phá các mục tiêu: Thị
xã Plei-cu, Sân bay Cù Hanh, căn cứ Hàm Rồng, thị xã Kon Tum, sau đó bộ
binh thực hành tiến công địch trên cả hai hướng Kon Tum và Plei-cu...
Hoạt động nghi binh lừa địch trong Chiến dịch Tây Nguyên và trong các
chiến dịch sau này là nghệ thuật quân sự độc đáo, tài tình, sáng tạo góp
phần vào Đại thắng mùa Xuân 1975.
Các đơn vị bộ binh của ta có sự yểm trợ của xe tăng tiến công Buôn Ma Thuột. Ảnh tư liệu.
Trước khi nổ ra chiến cuộc 1975, Tây Nguyên đã bị ta ép từ hai phía.
Phía bắc do Sư đoàn 10 đang áp sát bắc thị xã Kon Tum đến tận Võ Định
(cống 3 lỗ). Phía tây, Sư đoàn 320 áp sát thị xã Plei-cu. Để hình thành
thế bao vây, chia cắt Tây Nguyên với Quân khu 1 và 3 của địch, trước khi
tiến công Tây Nguyên ta đã cắt cả 2 tuyến đường huyết mạch nối đồng
bằng với Tây Nguyên là Quốc lộ 19 và 21 ở phía đông và chia cắt Quốc lộ
14 ở phía nam. Địch chỉ còn có con đường tiếp tế, chi viện trên không
nhưng các sân bay Kon Tum, Plei-cu đã nằm trong tầm bắn của pháo binh và
Sân bay Hòa Bình đã nằm trong kế hoạch tiến công của bộ đội đặc công và
bộ binh ta. Các khu vực có thể đổ bộ đường không đã được các đơn vị
chuẩn bị sẵn phương án tác chiến.
Sơ đồ Chiến dịch Tây Nguyên từ ngày 4-3 đến ngày 3-4-1975. Ảnh tư liệu
Ngày 9-1-1975, Quân ủy Trung ương đã họp triển khai Nghị quyết của Bộ
Chính trị về Chiến dịch Tây Nguyên, quyết định tăng cường tổ chức, chỉ
huy và lực lượng cho chiến trường Tây Nguyên.
Về lực lượng tác chiến, Bộ tư lệnh Chiến dịch Tây Nguyên được tăng
cường 2 sư đoàn bộ binh: Sư đoàn 968 từ chiến trường Nam Lào sang thay
thế cho Sư đoàn 10 và 320 ở bắc Kon Tum và tây Plei-cu. Sư đoàn 316 từ
miền Bắc vào để tham gia tiến công mục tiêu then chốt Buôn Ma Thuột.
Cùng với Sư đoàn 3, các trung đoàn đang chiến đấu ở Tây Nguyên và lực
lượng vũ trang các tỉnh Tây Nguyên, chúng ta đã tạo ra ưu thế hơn hẳn so
với địch. Trước khi nổ súng, so sánh lực lượng, ta đã vượt lên như sau:
Về sư đoàn bộ binh: Ta 4 địch 1, nếu tính cả Sư đoàn bộ binh 3 tham gia
cắt Đường 19 ở Bình Định tỷ lệ đó là 5/1. Trung đoàn bộ binh: 1,5/1,
trong đó trên hướng mục tiêu then chốt Buôn Ma Thuột gồm Sư đoàn 316,
Trung đoàn 95B, Trung đoàn 24, Trung đoàn 198 đặc công, Tiểu đoàn 27 đặc
công, Trung đoàn thiết giáp 273, hai trung đoàn pháo binh 40, 675, hai
trung đoàn cao xạ 232 và 234, hai trung đoàn công binh và Lực lượng vũ
trang tỉnh Đắc Lắc. Như vậy, trên chiến trường Tây Nguyên cũng như trên
hướng mục tiêu then chốt của chiến lược, ta đã tạo nên ưu thế áp đảo đối
với địch. Song, mặc dù ta đã tạo được ưu thế hơn địch cả về thế trận,
lực lượng, vũ khí và phương tiện nhưng nếu quá trình cài thế, địch phát
hiện được ý định của ta, tăng cường lực lượng cho Buôn Ma Thuột sẽ gây
ra rất nhiều khó khăn, dù ta đã có phương án đánh địch có phòng ngự dự
phòng. Vì vậy, để kìm chắc lực lượng địch ở Bắc Tây Nguyên, ta đã tiến
hành các biện pháp nghi binh, đánh lừa địch làm cho cả tình báo Mỹ, tổng
thống và Bộ Tổng tham mưu quân đội Sài Gòn luôn tin chắc là mùa Xuân
1975, Việt Cộng sẽ tiến công ở Bắc Tây Nguyên.
Nghi binh để điều khiển địch theo ý định của ta cũng là một nghệ
thuật nổi bật của Chiến dịch Tây Nguyên Xuân 1975. Về lực lượng ta đã sử
dụng cả Sư đoàn 968 thực hiện nhiệm vụ này. Sư đoàn 968 về đến Tây
Nguyên vào dịp Tết âm lịch đã bắt tay ngay vào việc trinh sát địa hình,
nhận bàn giao chiến trường của Sư đoàn 10 và Sư đoàn 320. Việc cơ động
lực lượng được giữ bí mật nghiêm ngặt. Sau khi nhận bàn giao chiến
trường, từ đầu tháng 2-1975, sư đoàn bắt đầu nhiệm vụ nghi binh lừa địch
của mình. Một trung đoàn bố trí ở bắc Kon Tum đã tiếp nhận các trận địa
của Sư đoàn 10 để lại, thường xuyên duy trì các hoạt động trinh sát,
bắn tỉa, pháo kích, đánh địch lấn ra ngoài như các hoạt động của Sư đoàn
10 vẫn làm. Đồng thời, đẩy mạnh các hoạt động chuẩn bị chiến trường như
làm đường cơ động, tung các toán trinh sát vào thị xã Kon Tum, tăng
thêm lực lượng ra phía trước, củng cố công sự, làm trận địa pháo, dùng
xe vận chuyển gạo, đạn từ phía sau ra Võ Định v.v.. Trước các hoạt động
trên của ta, đầu tháng 2, địch phải điều Liên đoàn 6 từ phía sau lên bắc
Kon Tum, nống ra bắc cao điểm 751, nhưng bị ta đánh trả quyết liệt phải
lùi lại.
Ở phía tây Plei-cu, sở chỉ huy sư đoàn với mật danh là “Bộ tư lệnh
B3” tăng các phiên liên lạc bằng vô tuyến điện và tăng thời lượng các
bức điện chỉ đạo tác chiến cho "Sư đoàn 10" và "Sư đoàn 320". Các máy
bay của địch liên tục quần thảo ở tây Plei-cu để định vị các đài vô
tuyến điện và xác định vị trí sở chỉ huy của ta. Máy bay B57 đánh bom
tọa độ vào các khu vực nghi có lực lượng ta. Có lần, chúng đã đánh trúng
sở chỉ huy sư đoàn ở khu vực Đức Cơ. Cùng với hệ thống thông tin vô
tuyến điện của 2 sư đoàn để lại nguyên như cũ với tần suất liên lạc của
mạng thông tin vô tuyến điện của Sư đoàn 968 tăng lên, địch càng tin
chắc mục tiêu của quân ta Xuân 1975 là Bắc Tây Nguyên. Sau này tướng Mỹ
Tim-mét, cố vấn của Nguyễn Văn Thiệu phải thú nhận: "Bằng biện pháp nghi
binh qua làn sóng điện, Việt Cộng đã thành công trong kế hoạch giam
chân bộ phận chủ yếu của Quân khu 2 ở Kon Tum và Plei-cu".
Trung đoàn 19 được giao tiếp nhận toàn bộ nhiệm vụ, trận địa của Sư
đoàn 320 để lại ở tây Plei-cu, cũng như Trung đoàn 29, Trung đoàn 19 bắt
tay ngay vào nhiệm vụ. Trước hết, lực lượng công binh của sư đoàn và
Trung đoàn 19 phối hợp với dân quân và nhân dân các làng phía
tây Plei-cu sửa lại các tuyến đường cơ động cho xe, pháo, mở mới những
đoạn đường ở gần các mục tiêu địch trên Quốc lộ 19 tây, 5A, 5B. Sư đoàn
cho phép công binh nổ bộc phá san đường ngầm qua các suối cạn. Những con
đường này ban đêm ta vẫn dùng xe đưa gạo, đạn cho bộ đội và nằm trong
kế hoạch tác chiến để cơ động pháo binh, cao xạ vào tiến công địch. Các
trận địa phòng ngự ở tuyến phía tây Gia Lai như Chư Kra, điểm cao 631
trên Đường 5A, 5B, Quốc lộ 19 được lệnh sửa chữa để làm bàn đạp cho các
lực lượng phía sau lên tiến công. Các tổ trinh sát tăng cường trinh sát
thị xã Plei-cu, trục Đường 14 đoạn Plei-cu - Hàm Rồng và đột nhập vào
Bầu Cạn (đông quận lỵ Thanh An) và Chư Gôi, bắt tù binh địch để khai
thác thông tin... Các hành động trên khiến địch càng tin rằng ta đã tăng
cường bố phòng chặt chẽ ở phía tây Plei-cu, chuẩn bị cho chiến dịch
quân sự sắp xảy ra ở Bắc Tây Nguyên.
Nhiệm vụ tác chiến của Sư đoàn 968 được giao trong giai đoạn nghi binh-mở màn cho Chiến dịch Tây Nguyên như sau:
Trên hướng Gia Lai phải đồng loạt tiến công địch trên trục Đường 19
tây, Đường 5A, 5B, thị xã Plei-cu, Sân bay Cù Hanh, đẩy địch vào sai lầm
cho rằng, hướng tiến công chính của chủ lực ta là Bắc Tây Nguyên.
Trên hướng Kon Tum, toàn bộ lực lượng đang phòng ngự trực tiếp tiếp
xúc với địch phải nổ súng đánh địch, vừa cải thiện thế trận của ta và
phối hợp với hướng Gia Lai, tạo áp lực mạnh từ phía bắc, buộc địch phải
rút hết lực lượng chủ lực Quân khu 2 - Quân đoàn 2 là Sư đoàn 23 và các
liên đoàn biệt động quân ra khỏi Đắc Lắc. Trong đó hình thành 2 mũi tiến
công trên trục Quốc lộ 14 Võ Định-Kon Tum và Ngọc Quăn-Kon Tum, kết hợp
với đánh cắt Quốc lộ 14 nam Kon Tum, hình thành thế bao vậy chia cắt
thị xã Kon Tum.
14 giờ ngày 28-2-1975, trận đánh nghi binh lừa địch mở màn Chiến dịch Tây Nguyên Xuân 1975 bắt đầu.
Các loại hỏa lực của Sư đoàn 968 đồng loạt bắn phá các mục tiêu: Thị
xã Plei-cu, Sân bay Cù Hanh, căn cứ Hàm Rồng, thị xã Kon Tum, sau đó bộ
binh thực hành tiến công địch trên cả hai hướng Kon Tum và Plei-cu.
Trên phía tây Đường 19, hỏa lực ta, đặc biệt là pháo 85 bắn thẳng
nhằm vào từng lô cốt, nhà ở của địch ở Đồn Tầm nổ súng, sau đó pháo,
cối, ĐKZ đánh phá các mục tiêu còn lại. Trên mạng thông tin của địch,
tất cả các đơn vị phía trước, phía sau đều báo cáo về cấp trên bị Việt
Cộng pháo kích dữ dội chưa từng có và xin máy bay, pháo binh chi viện.
Thực tế, hỏa lực của Sư đoàn 968 không nhiều đến mức như địch kêu vì sư
đoàn chỉ có 1 trung đoàn pháo được trang bị pháo 85, 122 và 105mm thu
được của địch. Nhưng một phần do hoang mang, một phần do ta tập trung có
trọng điểm vào các mục tiêu mở đầu, nên mật độ pháo, cối khá cao, đặc
biệt, pháo 85 bắn thẳng ở cự ly l000m thì không có công trình nào của
địch chịu nổi. Sau đó bộ binh xông lên đánh chiếm trận địa địch. Chỉ
trong 2 giờ, một loạt 3 cứ điểm của địch ở Tây Thanh An đã bị tiêu diệt,
ta đã giải phóng một tuyến phòng ngự của địch ở phía tây Plei-cu 5km
theo Quốc lộ 19. Trên hướng bắc Kon Tum, ta nhanh chóng đánh chiếm trận
địa nam cống Ba Lỗ trên Đường 14, dãy điểm cao Ngọc Quăn, áp sát thị xã.
Các ngày 1 và 2 tháng 3, ta tiếp tục ép địch ở Tây Plei-cu và bắc Kon
Tum, đưa công binh nổi chốt ở Bầu Cạn trên Đường 19 và cắt Đường 14 Kon
Tum - Plei-cu làm cho địch càng tin chắc rằng, chiến dịch tiến công của
ta vào Bắc Tây Nguyên đã bắt đầu. Kết quả là sáng 3-3-1975, Phạm Văn
Phú vội vã điều Trung đoàn 45, Sư đoàn 23 từ Ea H’leo tức tốc về lại tây
thị xã Plei-cu. Thế là toàn bộ chủ lực Quân đoàn 2 địch đã bị giữ chắc ở
Bắc Tây Nguyên.
Nghệ thuật nghi binh, điều địch của ta thành công đến mức khi ta nổ
súng tiến công quận lỵ Thuần Mẫn (ngày 8-3) và đánh quận lỵ Đức Lập
(9-3), tức là Buôn Ma Thuột đã bị phơi ra trước mũi súng của ta mà Phạm
Văn Phú vẫn không đoán biết được ý đồ tác chiến của ta. Mãi đến 4 giờ
sáng ngày 10-3, khi xe tăng của ta đã tiến vào Buôn Ma Thuột, Đại tá Lê
Khắc Hy, Tham mưu trưởng Quân khu 2-Quân đoàn 2 ngụy vào phòng ngủ đánh
thức, Phú mới biết Buôn Ma Thuột là mục tiêu chính của ta thì đã quá
muộn.
Thiếu tướng NGUYỄN NHƯ HUYỀN Nguồn: QĐND Online
Điều binh như thần, nghi binh như ảo thuật: Tháng 3/1975, Buôn Ma Thuột như "cá nằm trên thớt"
Đại tá Nguyễn Khắc Nguyệt |
31
Tượng đài Chiến thắng Buôn Ma Thuột. Ảnh: Saigon Tourist.
Cái hay nhất của quá trình điều binh, tạo thế là phía VNCH, trực tiếp là Bộ Tư lệnh QK 2, QĐ 2 vẫn không hề hay biết.
LTS: Trong cuộc
tổng tiến công nổi dậy Mùa Xuân 1975, Bộ Thống soái tối cao đã lựa chọn
Buôn Ma Thuột là trận then chốt quyết định bởi nếu chiếm được thị xã
này sẽ làm rung chuyển cả Tây Nguyên và miền Nam.
Xin
trân trọng giới thiệu với độc giả loạt bài của Đại tá Nguyễn Khắc
Nguyệt (Nguyên Trưởng ban KH-CN-MT Trường Sĩ quan Tăng Thiết giáp,
nguyên chiến sĩ lái xe tăng số 380 thuộc Đại đội 4, Lữ đoàn 203, cùng
đơn vị với các xe tăng 390 và 843 húc đổ cổng Dinh Độc Lập trưa
30-04-1975) về trận đánh lịch sử đó.
Thị
xã Buôn Ma Thuột (BMT) nằm ở giữa ngã ba của hai con đường chiến lược
14 và 21, là đầu mối giao thông của Nam Tây Nguyên. Từ BMT dễ dàng đi
lên các tỉnh phía Bắc và đi xuống Đông Nam Bộ - Sài Gòn bằng cả đường
không và đường bộ.
Chính
vì tầm quan trọng đó nên BMT có các căn cứ, sân bay, kho đạn hậu phương
của các đơn vị chủ lực của Quân khu 2; Quân đoàn 2 Việt Nam cộng hòa (VNCH).
Thị
xã được bảo vệ bởi các đơn vị khá tinh nhuệ gồm 1 Trung đoàn bộ binh,
Trung đoàn 232 pháo binh và 2 Tiểu đoàn pháo binh, Trung đoàn 8 thiết
giáp, cùng với lực lượng bảo an, cảnh sát, mật vụ… với tổng quân số hơn
8.000 lính.
Trong cuộc
tổng tiến công nổi dậy Mùa Xuân 1975, Bộ Thống soái tối cao đã lựa chọn
BMT là trận then chốt quyết định bởi nếu chiếm được thị xã này sẽ làm
rung chuyển cả Tây Nguyên và đe dọa cả miền Nam.
Tuy
nhiên, để tiến công vào một thị xã lớn với lực lượng quân sự khá mạnh
và giành thắng lợi trong trận đánh đó là điều không hề dễ dàng. Trong
hồi ký "Chiến đấu ở Tây Nguyên", Thượng tướng Hoàng Minh Thảo đã đúc kết
ngắn gọn về trận đánh này như sau:
NGUYÊN TƯ LỆNH MẶT TRẬN TÂY NGUYÊN - VIỆN CHIẾN LƯỢC QS BQP
THƯỢNG TƯỚNG - GS . NGND HOÀNG MINH THẢO
“Mưu
cao nhất là mưu lừa địch - Kế hay nhất là kế điều địch - Mưu sinh ra kế
- Kế đẻ ra thời - Đánh bằng mưu kế - Thắng bằng thế thời” (Trích: Chiến
đấu ở Tây Nguyên- Thượng tướng Hoàng Minh Thảo, NXB QĐND, tr. 191)
Trong
thực tế, Bộ Tư lệnh chiến dịch Tây Nguyên đã làm được như trên và đã
giành thắng lợi trong trận đánh then chốt, quyết định này.
Điều binh tạo thế như thần!
Là
thủ phủ của Nam Tây Nguyên, là nơi đóng đại bản doanh của Sư đoàn BB 23
có thể nói thị xã BMT năm 1975 là một thị xã quân sự. Các căn cứ quân
sự, kho tàng ... của Quân lực Việt Nam Cộng hòa (VNCH) ở đây chiếm phần
lớn diện tích của thị xã và được xây dựng một cách cơ bản, vững chắc,
nhiều tầng nhiều lớp.
Để tiến công thắng lợi thị xã này cần phải có một thế trận vượt trội về mọi mặt.
Trước
hết, đó là phải tạo được sự vượt trội về mặt binh hỏa lực. Vào thời
điểm đầu năm 1975, nếu so sánh về lực lượng giữa hai bên trên địa bàn
Quân khu 2 nói chung và Tây Nguyên nói riêng thì cán cân nghiêng về phía
VNCH.
Ưu thế đó càng nổi rõ khi so sánh về các trang bị nặng như xe tăng, thiết giáp và pháo binh, đặc biệt là không quân.
Trong
tình hình đó, nếu cứ rải mành mành ra mà đánh thì phần thất bại gần như
chắc chắn sẽ thuộc về bên tiến công. Còn nếu muốn thắng lợi thì phải
tạo được thế vượt trội. Bộ Tư lệnh chiến dịch Tây Nguyên đã làm được
điều đó tại "quyết chiến điểm" BMT bằng các hoạt động điều binh tạo thế.
Trước hết, để có đủ lực lượng
tập trung đánh trận then chốt quyết định này, phía Quân giải phóng (QGP)
đã phải điều động 2 sư đoàn bộ binh (Sư 10 và Sư 316 mới tăng cường từ
miền Bắc vào), một số trung đoàn bộ binh độc lập cùng các trung đoàn xe
tăng, pháo binh, cao xạ... từ Bắc Tây Nguyên xuống Nam Tây Nguyên.
Các hoạt động điều binh này được thực hiện hết sức bí mật nhằm tạo thế bất ngờ khiến đối phương trở tay không kịp.
Không
chỉ điều động lực lượng của mình, phía QGP còn gián tiếp "điều động" cả
lực lượng của đối phương nữa. Bằng nhiều hoạt động khác nhau, họ đã làm
cho phía VNCH phải phân tán lực lượng ra đối phó ở nhiều điểm khác và
do vậy, thị xã BMT gần như không được tăng cường binh hỏa lực vào thời
điểm chuẩn bị diễn ra trận đánh.
Quân VNCH tháo chạy khỏi Tây Nguyên. Ảnh tư liệu
Song
song với hoạt động điều binh, phía QGP còn tạo dựng được trong không
gian chiến dịch một thế trận chia cắt, vây hãm, "trói địch lại mà diệt"
(Sách đã dẫn, tr. 174). Cụ thể, Bộ Tư lệnh chiến dịch đã điều động một
số đơn vị đánh cắt đường 19, 21 nối giữa cao nguyên với đồng bằng ven
biển, chặn cắt đường 14 nối liến Nam - Bắc Tây Nguyên.
Ngoài
ra còn dùng hỏa lực tập kích vào các sân bay... Những hoạt động này
nhằm cô lập hoàn toàn thị xã BMT. Nếu thị xã này bị tiến công, phía VNCH
khó bề cứu viện.
Chính vì vậy,
trong khi so sánh lực lượng trên địa bàn toàn quân khu phía VNCH nhỉnh
hơn song tại "quyết chiến điểm" BMT thì ưu thế về binh hỏa lực lại
nghiêng hẳn về phía QGP. Cụ thể: bộ binh 5/1, tăng thiết giáp 2/1, pháo
lớn 2/1.
Ưu thế này bảo đảm cho QGP
khả năng giành thắng lợi nhanh chóng do đối phương khó có khả năng cầm
cự lâu dài chờ quân phản kích ứng cứu.
Điều binh tạo thế như vậy, cho đến trước ngày 10.3.1975, BMT đã như "cá nằm trên thớt"!
Cái
hay nhất của quá trình điều binh, tạo thế như nói trên là phía Việt Nam
cộng hòa, trực tiếp là Bộ Tư lệnh Quân khu 2, Quân đoàn 2 vẫn không hề
hay biết, vẫn cứ chắc như đinh đóng cột mục tiêu chủ yếu của chiến cuộc
Xuân Hè 1975 tại Cao Nguyên là Kon Tum, Plây-cu ở Bắc Tây Nguyên! Sở dĩ có tình trạng trên là nhờ mưu kế nghi binh, lừa địch rất cao tay của QGP.
Đã
có rất nhiều hoạt động nghi binh lừa địch được sử dụng trong quá trình
chuẩn bị cho trận then chốt quyết định này cả ở tầm chiến lược và chiến
dịch.
Ở tầm chiến lược, Bộ Thống soái tối cao đã chỉ thị cho mặt trận Trị Thiên và Đông Nam Bộ tăng cường hoạt động.
Vì
vậy, những lực lượng trù bị mạnh nhất của VNCH đều bị trói chân ở các
địa bàn này: Sư Dù phải tập trung bảo vệ Sài Gòn, Sư Thủy quân lục chiến
thì không thể rời Quân khu 1... Không chỉ vậy, Binh đoàn Quyết Thắng
cũng được lệnh cơ động áp sát sông Bến Hải cũng tạo một áp lực không nhỏ
lên giới lãnh đạo chóp bu Sài Gòn.
Trong
khi đó, ở tầm chiến dịch rất nhiều hoạt động nghi binh lừa địch đã được
tiến hành. Để giữ bí mật cho quá trình điều binh về phía nam Tây
Nguyên, các đài trạm vô tuyến điện của các sư đoàn bộ binh vẫn được giữ
nguyên vị trí và lên sóng thường xuyên như bình thường, thậm chí đôi khi
còn "nhỏ giọt" lộ ra một chút tin tức liên quan đến Bắc Tây Nguyên.
Cộng
với việc chấp hành nghiêm kỷ luật phòng gian giữ bí mật của bộ đội nên
trước giờ nổ súng, phía VNCH vẫn tưởng các đơn vị này ở nguyên vị trí
cũ.
Không chỉ chơi "trò chơi điện
tử", Bộ Tư lệnh chiến dịch Tây Nguyên còn sử dụng cả các hành động quân
sự thực tế để tăng sức nặng cho quá trình nghi binh lừa địch của mình
như mở đường, tập kích hỏa lực, thậm chí tổ chức tiến công... dường như
đang "bóc vỏ" để nhắm tới Kon Tum, Plây-cu.
Bộ
Tư lệnh chiến dịch đã dành hẳn một Sư đoàn bộ binh chuyên thực hiện
nhiệm vụ này. Đó là Sư đoàn BB 968. Vốn hoạt động bên Lào, cuối năm
1974, Sư đoàn 968 được Bộ điều về tăng cường cho mặt trận Tây Nguyên.
Bước vào chiến dịch, Sư đoàn 968 nhận nhiệm vụ "vừa đánh, vừa la" làm
cho phía VNCH rối như mớ bòng bong, không biết đâu mà lần.
Mở
đầu cho chuỗi trận đánh nghi binh, lừa địch là trận tiến công Đồn Tầm,
Chốt Mỹ ngày 01.3.1975. Tiếp đó là một loạt các hành động khác như: vây
diệt điểm cao 605, uy hiếp quận lỵ Thanh An; Tập kích hỏa lực vào Chư
Kara; Đưa lực lượng chiếm giữ Chư Gôi; Tiếp tục đánh địch trên đường 5A,
5B...
Tượng đài Chiến thắng Muôn Mê Thuột. Ảnh: Saigon Tourist.
Tất
cả các hoạt động trên đã làm cho phía VNCH bị lạc hướng hoàn toàn. Họ
đinh ninh rằng các hoạt động quân sự của QGP trong chiến cuộc Xuân Hè
1975 sẽ chỉ diễn ra ở Bắc Tây Nguyên mà trọng điểm là Kon Tum, Plây-cu.
Chính từ nhận định đó, lực lượng phía VNCH đã tập trung phòng ngự ở Bắc Tây Nguyên và thả nổi Nam Tây Nguyên, trong đó có BMT.
Không
được tăng cường lực lượng phòng thủ, bị chia cắt cô lập cả về đường bộ,
đường không, lại bị bao vây áp sát bởi một lực lượng vượt trội... Buôn
Ma Thuột không thất thủ mới là sự lạ!
(PL&XH) - Thượng tướng
Hoàng Minh Thảo là người văn võ toàn tài, ông được biết đến nhiều qua
Chiến dịch Tây Nguyên, chỉ huy các đơn vị điểm trúng huyệt, khiến cả
miền Nam rung chuyển, chính quyền ngụy quyền sụp đổ.
Mỗi chiến dịch lại hình thành một chiến thuật mới
Trong đời binh nghiệp của mình, ông đã
trực tiếp chỉ huy 6 chiến dịch, tất cả đều giành thắng lợi, trong đó có
nhiều chiến dịch mang tính then chốt, tạo bước ngoặt lớn. Điều thú vị là
mỗi chiến dịch do ông chỉ huy đều được ông tổng kết và hình thành một
chiến thuật mới, như “Vận động bao vây liên tục” (trận Đắk Siêng), hay
“Vận động tiến công kết hợp chốt” (trận Đắk Tô), làm phong phú thêm nghệ
thuật quân sự Việt Nam. Trong đó, đặc biệt nhất phải kể đến Chiến dịch
Tây Nguyên với trọng tâm là Buôn Ma Thuột, điểm đột phá - trận then
chốt, nơi ông được Bộ Chính trị và Quân ủy Trung ương tin tưởng tuyệt
đối và giao làm Tư lệnh.
Là Tư lệnh Mặt trận, ông đã nhiều năm lăn
lộn trên chiến trường này nên đã nghiên cứu rất kỹ, thấy rõ chỗ hiểm
yếu, sơ hở của địch ở Buôn Ma Thuột, nếu điểm đúng huyệt này, thì không
những Tây Nguyên, mà các tỉnh Nam Trung Bộ cũng rung chuyển.
Là vị tướng của mưu, kế, thế, trận, nên
ngay khi về lại Tây Nguyên, ông đã dày công tổ chức nghi binh, lừa địch
bằng nhiều biện pháp.
Những động tác "giả như thật" gồm nghi
binh qua làn sóng điện, tổ chức cho dân công các huyện làm đường chạy
thẳng vào thị xã Kontum và Plây-cu, cho pháo binh bắn vào Plây-cu khiến
địch phán đoán sai lầm ý đồ của ta. Tiếp đó, ông tổ chức đánh chia cắt
đường 19, đường 14, đường 21, đánh chiếm các quận lỵ Thuần Mẫn và Đức
Lập để cô lập Buôn Ma Thuột. Kết quả là, địch phải điều quân đối phó với
những hoạt động “thật mà giả” đó, thậm chí chúng còn điều một Trung
đoàn bộ binh rời Buôn Ma Thuột tăng viện cho Play-cu.
Lúc chúng sơ hở nhất thì đại quân ta nổ
súng. 1giờ55 ngày 10-3-1975, Tư lệnh chiến dịch Tây Nguyên, đồng thời là
chỉ huy trưởng trận đánh Buôn Ma Thuột, Hoàng Minh Thảo ra lệnh nổ
súng!
Các đơn vị đặc công, bộ binh được xe tăng,
pháo binh và cao xạ yểm trợ đã đồng loạt, tổ chức tiến công áp đảo vào
Buôn Ma Thuột, tiêu diệt toàn bộ quân địch ở đây. Sau hai ngày chiến
đấu, ta hoàn toàn làm chủ thị xã Buôn Ma Thuột, đập vỡ một mảng lớn hệ
thống phòng thủ của địch ở Tây Nguyên. Ngày 11-3, Bộ Chính trị họp nhận
định: “Thắng lợi ở Buôn Ma Thuột - Đức Lập-Trên đường 19 và các hướng
khác, chứng tỏ ta có khả năng giành thắng lợi to lớn với nhịp độ nhanh
hơn dự kiến. Đồng chí Lê Duẩn gợi ý: “Trước đây ta dự kiến 2 năm giải
phóng miền Nam, nay có Phước Long, Buôn Ma Thuột, ta có thể đẩy mạnh
hơn. Đây phải chăng là bước đầu của tổng tiến công chiến lược, nên suy
nghĩ” (1).
Bị mất Buôn Ma Thuột, Nguyễn Văn Thiệu và
tướng ngụy Phạm Văn Phú, vội vã đưa hai Trung đoàn 44 và 45 thuộc Sư
đoàn 23 lên giải tỏa, tổ chức cho Trung đoàn 53 và Liên đoàn 21 biệt
động quân vào trận. Chúng không thể ngờ, thế trận đánh địch phản kích đã
được Tư lệnh chiến dịch Hoàng Minh Thảo và cơ quan tác chiến mặt trận
đã dàn sẵn. Vì vậy, cuộc phản kích của địch đã bị Sư đoàn 10 và Trung
đoàn 25 của ta đánh bại hoàn toàn ở Nông Trại và Chư Cúc trong những
ngày trung tuần tháng 3.
Mất Buôn Ma Thuột, giải tỏa thất bại, địch
hoang mang cực độ, dẫn đến sai lầm về chiến lược. Ngày 14-3, Thiệu đến
Cam Ranh, ra lệnh rút khỏi Plây-cu, Kontum về giữ vùng duyên hải.
Ngày 16-3, bộ đội chủ lực của ta tổ chức
truy kích địch rút chạy theo đường 7. Bộ đội địa phương Tuy Hòa được
lệnh tổ chức chặn đầu ở Củng Sơn. Vì vậy, ta đã tiêu diệt và làm tan rã
gần hết quân địch trong các trận ở Cheo Reo và Củng Sơn. Chiến dịch Tây
Nguyên kết thúc thắng lợi, làm thay đổi cơ bản so sánh lực lượng và thế
chiến lược giữa ta và địch, tạo bước ngoặt quyết định, đưa cuộc tiến
công chiến lược của ta phát triển thành Tổng tiến công trên toàn miền
Nam Việt Nam.
Trong cuốn Về cách dùng binh, ông tâm đắc:
“Mưu cao nhất là mưu lừa địch.
Kế hay nhất là kế điều địch.
Lừa địch là tạo ra bất ngờ.
Điều địch là giành được chủ động.
Bất ngờ và chủ động là mạch sống của tác chiến”.
Thượng tướng - Giáo sư Hoàng Minh Thảo.
Hoàng Minh Thảo, vị Tướng văn võ song toàn
Mới 20 tuổi, ông đã được lãnh tụ Nguyễn Ái Quốc chọn đi học trường Quân sự Hoàng Phố (Trung Quốc).
Sau này, ông còn học ở Liên Xô và Trung
Quốc một lần nữa, lại là Tư lệnh Mặt trận Tây Nguyên - một địa bàn chiến
lược quan trọng nhất ở Đông Dương, ông đã trực tiếp cầm quân 6 chiến
dịch lớn. Ra trận, rồi về làm Hiệu trưởng ở trường Quân sự, rồi ông lại
ra trận, khi kết thúc chiến tranh, ông đã dành toàn bộ thời gian để
giảng dạy và nghiên cứu khoa học. Tính ra, ông đã có 24 năm làm GĐ hoặc
Viện trưởng các trường và học viện quân sự cấp cao, nơi đào tạo các cán
bộ chiến dịch của quân đội ta. Có thể nói, phần lớn cán bộ cao cấp trong
quân đội đã được ông đào tạo.
Ông đã có nhiều công trình khoa học sáng
giá, được nhận giải thưởng Hồ Chí Minh về khoa học công nghệ cho 8 công
trình về nghệ thuật quân sự Việt Nam. Là vị tướng tài năng cả về cầm
quân chiến trận, cả về nghiên cứu khoa học và giảng dạy, cả về đóng góp
cho lý luận và nghệ thuật quân sự Việt Nam. Thấm nhuần những lời dạy của
Bác Hồ nên ông sống thanh bạch, giản dị, dân dã, thương yêu chiến sĩ,
nâng đỡ cán bộ cấp dưới. Tất cả cán bộ, chiến sĩ đã từng công tác hoặc
phục vụ trong cơ quan, ông đều tạo điều kiện cho đi học để phát triển.
Khi cầm quân đánh giặc, ông tìm mọi cách để hạn chế thương vong cho
chiến sĩ, thậm chí khi quân địch thua chạy trên đường số 7, ông còn nhắc
nhủ chỉ huy ta: địch đã thua chạy, hãy làm cho địch tan rã chứ không
cần đánh tiêu diệt.
Là vị tướng cầm quân và đào tạo cán bộ
quân sự, nhưng ông thấu hiểu “luật nhân quả”, nên ông luôn tu dưỡng đạo
đức để hoàn thiện bản thân.
Trong nhà ông có tượng Phật, có nhiều
tranh và lời dạy của Phật. Đối với vợ con, ông nhất mực thương yêu và
giáo dục nghiêm khắc, nên cả ba người con trai của ông và cả các cháu
của ông cũng trở thành những người thành đạt, tài năng.
Hồi còn làm Tư lệnh Quân khu V, ông đã
cùng với đồng chí Chính ủy Đoàn Khuê, cho cán bộ đi vào các bản làng hẻo
lánh trên Tây Nguyên để đón các cháu mồ côi và con em những gia đình
khó khăn, tập trung về một nơi để nuôi dưỡng, chăm sóc, cho học văn hóa.
Khi đủ tuổi thì cho huấn luyện để sau này chính những cháu nhỏ đó đã trở thành cán bộ, xây dựng các bản làng Tây Nguyên hùng vĩ.
Trong cuộc đời binh nghiệp, ông đã hai lần
được gặp Bác Hồ. Lần thứ nhất, sau khi tốt nghiệp trường Quân sự Hoàng
Phố, đoàn học viên quân sự của Việt Nam được chuyển về Nam Ninh, dự một
lớp học tập kỹ thuật và chiến thuật biệt động quân. Trong cuộc gặp gỡ
đó, sau khi nói về tình hình trong nước và quốc tế, Bác đã chủ trương
đưa số cán bộ vừa tốt nghiệp trường Quân sự Hoàng Phố về nước để đón
thời cơ cách mạng. Bác dặn anh em: Sớm về nước để tham gia hoạt động vũ
trang và phải đoàn kết thương yêu, gắn bó với nhau…
Sau này ông mới kể rằng, tên ông là Tạ
Thái An, còn cái tên Hoàng Minh Thảo là do Bác Hồ cho trong lần gặp gỡ ở
Trung Quốc. Bác còn dặn dò: Hoàng là để nhớ trường Quân sự Hoàng Phố;
Minh là minh triết, trí tuệ, sáng tạo; Thảo là thơm thảo, hiếu nghĩa,
dân dã, quần chúng. Lần thứ hai được gặp Bác Hồ là vào tháng 2 năm 1951,
lúc đó ông đang chỉ huy Đại đoàn 304 hành quân lên Việt Bắc thì được
Bác đến thăm đơn vị.
Từ cửa rừng, Bác ung dung đi đến chỗ bộ
đội tập hợp, Bác bước lên sạp tre mới dựng hồi chiều. Bác hỏi: “Các chú
có khỏe không? Hôm nay là Cha đến thăm con, Bác đến thăm cháu, không
riêng là Chủ tịch nước tới thăm bộ đội”. Lời của Bác là tấm lòng nhân
hậu, tình thương bao la đối với Sư đoàn. Khi gặp gỡ các cán bộ chủ chốt
của Đại đoàn, Bác dặn: “Đánh giặc phải biết giặc, biết mình mới thắng,
không được chủ quan”. Những lời dạy của Bác trong hai lần gặp Người, đã
giúp ông trong chỉ huy các chiến dịch cũng như trong giảng dạy, đào tạo
cán bộ, nghiên cứu khoa học suốt cuộc đời binh nghiệp của mình.Ông thật
xứng đáng là học trò của Chủ tịch Hồ Chí Minh.
(1) Xem Cuộc Kháng chiến chống Mỹ cứu nước 1954-1975 - Những sự kiện quân sự. Nxb QĐND, 1988. Tr.309.
Đại tá Nguyễn Huy Toàn (Nhà nghiên cứu tư tưởng Văn hóa Quân sự)
Tướng Bùi Phan Kỳ nói về cách đánh độc, lạ trong Chiến thắng 30/4
(Chinhphu.vn) – Nghệ thuật tạo lập thế trận tác chiến chiến
lược mùa Xuân 1975, là một nghệ thuật độc đáo, tài tình và cũng thật là
kỳ lạ, đầy sáng tạo của chiến tranh nhân dân Việt Nam. Đây là vấn đề cần
tiếp tục được nghiên cứu, vận dụng vào thực tiễn trong chiến lược bảo
vệ đất nước hiện nay và mai sau.
Thiếu tướng, Giáo sư Bùi Phan Kỳ. Ảnh: VGP/Phương Liên
Thiếu tướng, Giáo sư Bùi Phan Kỳ, nguyên Trưởng ban Đường lối học thuyết
quân sự, Viện Chiến lược Quốc phòng đã có những phân tích sâu sắc về
nghệ thuật tác chiến chiến dịch của quân đội ta trong Chiến thắng
30/4/1975.
Xin ông phân tích về nghệ thuật tác chiến chiến dịch từ chiến
dịch Tây Nguyên mở đầu đến chiến dịch Hồ Chí Minh giành toàn thắng cho
mùa xuân lịch sử năm 1975? Thiếu tướng Bùi Phan Kỳ: Về nghệ thuật tổ chức và
tác chiến chiến dịch, đó là cả lý luận và thực tiễn chuẩn bị, thực hành
mỗi một chiến dịch. Nó là một bộ phần hợp thành của nghệ thuật quân sự.
Nó là khâu nối liền giữa chiến lược quân sự với chiến thuật. Nghệ thuật
chiến dịch hay nghệ thuật tác chiến chiến dịch gồm 2 phần. Phần lý luận
chiến dịch là nghiên cứu các quy luật, các nội dung và tổ chức các chiến
dịch, xác định những phương pháp, nguyên tắc để chuẩn bị và tiến hành
chiến dịch; xác định phương pháp và cách thức tổ chức hiệp đồng để chỉ
huy bộ đội trong chiến dịch; đề ra những yêu cầu về tổ chức và chuẩn bị
chiến trường, nghiên cứu đối tượng tác chiến của chiến dịch. Còn về mặt
thực tiễn của nghệ thuật chiến dịch là mọi hoạt động chuẩn bị và thực
hành chiến dịch, bao gồm các hoạt động của liên binh đoàn tham gia chiến
dịch. Hoạt động chuẩn bị ấy là của tư lệnh các cơ quan và của những đơn
vị tác chiến.
Nghệ thuật chiến dịch chia thành nghệ thuật chiến dịch của binh chủng
hợp thành và nghệ thuật chiến dịch của từng quân chủng như nghệ thuật
chiến dịch hải quân, nghệ thuật chiến dịch không quân, nghệ thuật chiến
dịch phòng không…
Vào mùa xuân năm 1975, các chiến dịch đều dùng nghệ thuật chiến dịch
của binh chủng hợp thành, có bộ binh, pháo binh, xe tăng… Từ chiến dịch
Tây Nguyên là chiến dịch mở đầu đến chiến dịch Hồ Chí Minh toàn thắng,
các chiến dịch đó không riêng rẽ , tách rời nhau mà nằm trong cuộc tổng
tiến công chiến lược của ta bằng 3 đòn chiến lược.
Đòn chiến lược thứ nhất là chiến dịch Tây Nguyên, chiến dịch mở đầu
cho chiến lược giải phóng miền Nam, tạo thế cho cuộc tổng tiến công,
diễn ra từ ngày 4/3-3/4/1975. Phải đến sau chiến thắng Buôn Ma Thuột, Bộ
Chính trị mới chính thức khẳng định: “Với Chiến dịch Tây Nguyên đại
thắng, cuộc tổng tiến công chiến lược thực tế đã bắt đầu”. Đồng thời chỉ
rõ thời cơ chiến lược mới đã xuất hiện và hạ quyết tâm tiến hành đòn
quyết chiến chiến lược cuối cùng vào sào huyệt ngụy quyền tại Sài Gòn
trong thời gian nhanh nhất, với phương châm hành động: “thần tốc, táo
bạo, bất ngờ, chắc thắng”.
Như vậy, Chiến dịch Hồ Chí Minh (26-30/4/1975) trên thực tế được hình
thành trong quá trình cuộc tiến công nổi dậy, mở đầu bằng Chiến dịch
Tây Nguyên, tiếp theo là Chiến dịch Huế-Đà Nẵng (21-29/3/1975); cả 2
chiến dịch này địch thua và “vỡ” nhanh quá dẫn đến ta quyết tâm thực
hiện Chiến dịch Hồ Chí Minh. Đó là ba đòn tiến công chiến dịch nối tiếp
và liên kết chặt chẽ với nhau.
Thực chất, đây là ba đòn tiến công có ý nghĩa chiến lược, đánh dấu sự
phát triển đến đỉnh cao nhất của nghệ thuật quân sự Việt Nam trong cuộc
kháng chiến chống Mỹ, cứu nước. Trong đó, chiến dịch Hồ Chí Minh là một
điển hình của loại hình chiến dịch tiến công hiệp đồng binh chủng quy
mô lớn. Đây là chiến dịch đã tận dụng được và phát huy cao độ thế chiến
lược do các chiến dịch trước (Tây Nguyên, Huế -Đà Nẵng) tạo ra để tập
trung lực lượng với ưu thế áp đảo quân địch cả về lực lượng, thế trận và
tinh thần. Chiến dịch đó phát huy cao nhất sức mạnh của các binh đoàn,
binh chủng hợp thành với quy mô lớn nhất, đập tan tuyến phòng thủ của
địch ở vòng ngoài; đánh thẳng vào trung tâm đầu não, sào huyệt của địch,
kết hợp với nổi dậy của quần chúng, kết thúc thắng lợi cuộc kháng chiến
chống Mỹ, cứu nước (1954-1975).
Nét đặc sắc của Chiến dịch Hồ Chí Minh là: đã đánh giá đúng so sánh
lực lượng địch-ta, kiên định thực hiện chủ trương của Bộ Chính tri, Quân
ủy Trung ương và Bộ Tổng Chỉ huy là tập trung lực lượng, chọn thời cơ,
tiến công kiên quyết, thần tốc, táo bạo, bất ngờ, giành thắng lợi hoàn
toàn và triệt để.
Thắng lợi vĩ đại của Chiến dịch Hồ Chí Minh lịch sử đã để lại những
bài học kinh nghiệm vô cùng quý báu về nghệ thuật tiến công quân địch
bằng chiến dịch hiệp đồng binh chủng. Nghệ thuật quân sự Việt Nam đã
được thể hiện ở đỉnh cao trong cuộc tổng tiến công chiến lược mùa Xuân
năm 1975.
Vì sao ta phải tiến hành liên tục 3 chiến dịch để giải phóng miền Nam
ngay lúc bấy giờ? Hội nghị Paris kết thúc với chủ trương của chúng ta
là sẽ giành thống nhất trong hòa bình. Sau Hội nghị Paris, ta đã đạt mục
tiêu như Bác Hồ nói là “đánh cho Mỹ cút”, ngày 29/3/1973 thì Mỹ rút hết
quân nhưng vẫn tiếp tục chiến lược “Việt Nam hóa chiến tranh, chỉ huy
Ngụy quân, Ngụy quyền tiến hành cuộc chiến tranh lấn chiếm và bình định,
tiếp tục giữ miền Nam trong quỹ đạo là thuộc địa kiểu mới của Mỹ. Mục
tiêu của họ là vừa lấn chiếm vùng giải phóng, bình định vùng chiếm đóng,
tiêu diệt một lực lượng của ta và đẩy lùi một lực lượng của ta ra sát
biên giới. Sau khi rút quân thì Mỹ viện trợ cho chính quyền Sài Gòn
2.670 triệu USD, them 700 máy bay, 500 khẩu pháo, 400 xe tăng, bổ sung 2
triệu tấn vật liệu chiến tranh, chuyển gấp hàng nghìn sỹ quan Mỹ thành
nhân viên dân sự để làm cố vấn. Chính quyền Sài Gòn coi việc giành dân,
lấn đất lần này là keo cuối cùng để dành lợi thế nên họ lấy ấp, xã làm
địa bàn quyết định chiến tranh nên đã phát triển quân đội Sài Gòn lên
đến 70 vạn quân, lực lượng phòng vệ quân sự lên đến 1,5 triệu, đưa hơn
20% sỹ quan về chỉ huy xã, phường…
Chỉ trong năm 1973, quân ngụy đã tiến hành hơn 1 vạn cuộc hành quân từ
cấp tiểu đoàn trở lên, càn quét, lấn chiếm ở các vùng tranh chấp; 35 vạn
cuộc hành quân kiểm soát trong vùng họ kiểm soát… Rõ ràng là có ý đồ
chia cắt lâu dài và khiến đất nước ta không có khả năng thống nhất bằng
biện pháp hòa bình. Trước tình hình đó, từ tháng 5/1973, Bộ Chính trị đã
họp và nhận định về tình hình sau mấy tháng thi hành Hiệp định Paris,
thấy xu hướng chống phá của địch ngày càng tăng trong khi chúng ta vì đã
có xu hướng chấm dứt chiến tranh trong hòa bình nên phạm nhiều sơ hở,
đối phó với địch lúng túng nên đã có nhiều tổn thất. Sau đó, Bộ Chính
trị đã khẳng định con đường của cách mạng Việt Nam vẫn phải là con đường
bạo lực và xác định nhiệm vụ cơ bản của cách mạng Việt Nam vẫn là cách
mạng của dân tộc, dân chủ nhân dân, phương thức đấu tranh vẫn kết hợp
đấu tranh quân sự, đấu tranh chính trị, đấu tranh địch vận. Mỗi chiến dịch đều có mục đích, nhiệm vụ nhất định, tuy nhiên nét
nổi bật của nghệ thuật chiến dịch Việt Nam là nghi binh, lừa địch nhằm
giữ được bí mật bất ngờ trong chuẩn bị và thực hành chiến dịch. Xin ông
phân tích sâu về điều này trong các chiến dịch tháng 3 và tháng 4 năm
1975. Thiếu tướng Bùi Phan Kỳ: Trong cuộc tiến công và nổi
dậy năm 1975, nghệ thuật nghi binh được thể hiện trên nhiều phương
diện. Trước khi phân tích sâu về điều này tôi xin nhắc lại định nghĩa về
“nghi binh”. Trong Từ điển Bách khoa Quân sự Việt Nam, nghi binh là các
hoạt động tác chiến và các hoạt động khác nhằm đánh lừa đối phương
khiến chúng đoán sai về lực lượng, vị trí bố trí, khả năng tác chiến,
phương pháp tác chiến, ý định và kế hoạch tác chiến, thu hút lực lượng
của chúng sang hướng khác, tạo bất ngờ trong tác chiến. Người ta chia ra
thành: nghi binh chiến lược, nghi binh chiến dịch và nghi binh chiến
thuật. Nghi binh được xác định trong chiến thuật tác chiến của người chỉ
huy được thực hiện bằng các biện pháp che dấu các sự thật, tạo thông
tin giả. Căn cứ vào định nghĩa trên ta có thể xác định thế trận của ta
trong cuộc tổng tiến công chiến lược năm 1975 cũng là một đòn nghi binh
chiến lược rất lớn.
Đòn chiến lược đầu tiên là ta đánh vào Buôn Ma Thuột đã khiến cho đối
phương bất ngờ, hoang mang. Trong suốt thời gian thực hiện kế hoạch
nghi binh từ giữa tháng 11/1974 đến đầu tháng 3/1975, những phương án
nghi binh được ta triển khai rầm rộ như huy động công binh, nhân dân mở
đường cơ giới, phao tin đánh Gia Lai, Kon Tum... Mặc dù quân đã chuyển
về phía nam Tây Nguyên chuẩn bị đánh Buôn Ma Thuột, nhưng vẫn giữ nguyên
đường dây điện tín, trạm phát, người trực tổng đài, phát, truyền
tin…tại phía Bắc Tây Nguyên. Thông tin nghi binh vẫn được đều đặn phát
ra, vì vậy qua nguồn tin thám báo, tình báo của địch tin rằng ta chuẩn
bị đánh Gia Lai, Kon Tum. Lập tức chúng điều động lực lượng bố phòng khu
vực này, trong khi đó Buôn Ma Thuột bỏ ngỏ và bị cô lập.
Kế hoạch nghi binh thắng lợi không chỉ tiết kiệm được thời gian mà
còn giảm mức thương vong thấp nhất cho lực lượng của ta để nhanh chóng
giải phóng hoàn toàn Buôn Ma Thuột, Đắk Lắk… đẩy địch vào thế bị động,
bất ngờ.
Thắng lợi của chiến dịch Tây Nguyên trước hết là thắng lợi của chiến
dịch nghi binh, lừa địch. Hút địch, giam chân địch mà đến lúc chúng ta
đánh vào mục tiêu chính, địch không còn cách gì cứu vãn được. Chiến dịch
Tây Nguyên giải phóng cả Đắk Lắk, Gia Lai, Cheo Reo, Phù Bổn và cả Kon
Tum. Như vậy, 4 tỉnh Tây Nguyên hoàn toàn giải phóng và còn giải phóng
được cả 3 tỉnh đồng bằng khu 5 là Bình Định, Phú Yên, Khánh Hòa
Từ đòn điểm huyệt Buôn Ma Thuột của Chiến dịch Tây Nguyên đã tác động
dây chuyền, dẫn đến sự sụp đổ rộng lớn không thể cưỡng nổi của Ngụy
quyền. Kế hoạch, nghệ thuật nghi binh bài bản và tác chiến chu đáo đã
đưa đến thắng lợi hoàn toàn ở Tây Nguyên, chia cắt địa bàn của địch,
chiến thắng nối tiếp chiến thắng, tạo đột biến chiến lược để ta sớm tiến
vào chiến dịch Hồ Chí Minh, giải phóng hoàn toàn miền Nam, thống nhất
đất nước. Quân đội ta luôn quán triệt, vận dụng quan điểm phát huy sức mạnh
tổng hợp của chiến tranh nhân dân. Sức mạnh nhân dân và vai trò quần
chúng trong Chiến dịch Hồ Chí Minh được thể hiện như thế nào, thưa Thiếu
tướng? Thiếu tướng Bùi Phan Kỳ: Sứcmạnh nhân dânchính
là nghệ thuật tổ chức lực lượng “Toàn dân đánh giặc” của Đảng ta. Cuộc
kháng chiến chống Mỹ, cứu nước vĩ đại của dân tộc ta vừa có tính chất
của một cuộc chiến tranh giải phóng, vừa có tính chất của cuộc chiến
tranh bảo vệ Tổ quốc. Nhưng, đó đều là cuộc chiến tranh nhân dân, chiến
tranh tự vệ chính nghĩa, do toàn dân tiến hành, dưới sự lãnh đạo của
Đảng nhằm chống lại chiến tranh xâm lược của chủ nghĩa đế quốc. Chúng ta
không chỉ chú trọng xây dựng quân đội làm nòng cốt để tiến hành chiến
tranh mà còn phát huy tối đa trí tuệ, sức lực, truyền thống, kinh nghiệm
Việt Nam từ xa xưa để đánh giặc bằng sức mạnh của cả một dân tộc nhằm
đánh bại lực lượng quân sự nhà nghề với những cỗ máy chiến tranh khổng
lồ, chuyên nghiệp và tàn ác của Mỹ-Ngụy.
Với nghệ thuật tổ chức lực lượng và vận dụng các hình thức, phương
thức tác chiến như vậy, ta đã xây dựng được thế trận chiến tranh nhân
dân “thiên la địa võng”, rộng khắp, vững chắc nhưng mạnh ở trọng điểm.
Điều đó lý giải vì sao ta có thể “Mở mặt trận ở bất cứ nơi nào có bóng
địch, đánh ngay ở cả sau lưng địch, trong trung tâm phòng ngự của địch”
và “Kéo địch ra khỏi hang ổ mà đánh, căng địch ra mà đánh, luồn sâu vào
hậu phương địch mà đánh, bám thắt lưng địch mà đánh…”. Vì vậy, trong
cuộc Tổng tiến công và nổi dậy mùa Xuân năm 1975, thế trận và lực lượng
ấy đã bảo đảm cho ta luôn đánh cho địch ở thế bị động, càng đánh càng
bộc lộ sơ hở, càng đánh địch càng bị dồn vào nguy cơ thất bại.
Trong Chiến dịch Hồ Chí Minh lịch sử, nhờ nghệ thuật tổ chức toàn dân
đánh giặc mà ta vừa có điều kiện tập trung lực lượng đánh vào các thành
phố lớn, tiêu diệt và bắt sống địch, đồng thời, vừa có điều kiện đánh
địch rộng khắp cả ở rừng núi, nông thôn và vùng ngoại ô thành phố, loại
khỏi vòng chiến đấu hàng trăm nghìn tên địch ở các chiến trường khác.
Nhờ nghệ thuật tổ chức lực lượng toàn dân đánh giặc, ta đã kết thành
lưới lửa của thế trận chiến tranh nhân dân, diệt nhiều máy bay, tàu
chiến, đánh bại hoàn toàn ý chí xâm lược của đế quốc Mỹ, khiến Mỹ-Nguỵ
từng bước rơi vào cơn khốn quẫn và kết cục đã bị thất bại toàn diện cả
về quân sự và chính trị.
Trên cơ sở đường lối chiến tranh nhân dân, nghệ thuật tác chiến chiến
lược theo đường lối chiến tranh nhân dân, kết hợp chặt chẽ giữa chiến
tranh du kích với chiến tranh chính quy, giữa đấu tranh quân sự với đấu
tranh chính trị và binh vận, chúng ta đã tác chiến thành công trên toàn
bộ chiến tuyến, đánh cả ở phía trước và đằng sau lưng địch, trên cả 3
vùng chiến lược. Mục tiêu của cuộc tiến công chiến lược là phải phá vỡ
chiến lược, tiêu diệt lực lượng tiến công chiến lược, đánh bại biện pháp
chiến lược, làm suy sụp ý chí chiến đấu và quyết tâm chiến lược của
địch, giải phóng lãnh thổ, đánh chiếm thủ đô của địch, đi đến kết thúc
chiến tranh. Thưa Thiếu tướng, sau 40 năm đất nước thống nhất, quân đội ta đã
trưởng thành về mọi mặt, tuy nhiên với danh hiệu cao quý “Bộ đội cụ Hồ”,
quân đội ta cần xây dựng chuẩn mực trong giai đoạn hiện nay ra sao? Thiếu tướng Bùi Phan Kỳ: Quân đội ta vừa là quân đội
lập quốc và quân đội xây dựng chế độ. Quân đội ta ra đời trước Nhà
nước, điều này khác hoàn toàn với quân đội của nhiều quốc gia trên thế
giới. Bác Hồ là người sáng lập Đảng, phục tùng sự lãnh đạo của Đảng để
lập ra quân đội. Và danh hiệu Bộ đội Cụ Hồ là do nhân dân đặt cho, bởi
vậy cán bộ, chiến sĩ quân đội phải phục tùng sự lãnh đạo của Đảng, là
"đội cận vệ" tin cậy bảo vệ Đảng, bảo vệ chế độ.
Trong tình hình hiện nay, để làm được điều đó, Bộ đội Cụ Hồ phải cảnh
giác, kiên quyết đấu tranh làm thất bại chiến lược “biên giới mềm” của
các thế lực thù địch, phản động chống phá đất nước ta trên các lĩnh vực
của đời sống xã hội. Bộ đội Cụ Hồ có trách nhiệm phát huy bản chất tốt
đẹp đã được tôi rèn trong suốt chặng đường xây dựng, trưởng thành, lớn
mạnh và phát huy ảnh hưởng của mình bằng những công việc tốt, những hành
động đẹp tới toàn xã hội; noi gương, học tập tinh thần “dĩ công vi
thượng” của Đại tướng Võ Nguyên Giáp.
Để giữ vững, phát huy bản chất Bộ đội Cụ Hồ, các đơn vị quân đội cần
tiếp tục thực hiện có hiệu quả chức năng đội quân công tác, vận động
cách mạng, vận động quần chúng bằng những việc làm cụ thể, nói cho dân
hiểu, làm cho dân tin, để dân thực hiện tốt đường lối, chủ trương của
Đảng, chính sách pháp luật của Nhà nước. Được như vậy càng thêm xứng
đáng với danh hiệu "Bộ đội Cụ Hồ" nhân dân đặt cho.
(ĐC sưu tầm trên NET) Oscar Là Ai? Câu Chuyện Về Cuộc Đời Bi Kịch Của “Thiên Tài Bị Xã Hội Vùi Dập” Ít ai biết rằng, giải thưởng danh giá của làng điện ảnh – Oscar - được lấy theo tên của nhà văn nổi tiếng Oscar Wilde. Năm 1854, khi rửa tội cho con trai thứ hai nhà Wilde, Đức cha Prideaux Fox không hề biết rằng cậu bé này rồi sẽ là “thiên tài bất thường” của Ireland. Về sau, Oscar Wilde đã trở thành một trong những nhân vật đặc biệt nổi bật của giới văn chương, người luôn ở giữa tôn vinh và hạ nhục, giữa cái đẹp và sự tăm tối, giữa sa hoa và khốn cùng. Không nhiều người có thể trả lời câu hỏi: " Oscar là ai?" Quang Thạch | 01/03/2016 10:07 7 Theo một video phỏng vấn ngay trước thềm Oscar 2016, các diễn viên tới dự giải Oscar cũng không thể trả lời câ...
(ĐC sưu tầm trên NET) Thời sự quốc tế sáng 10/5/2018 TIN TỨC VIỆT NAM MỚI NHẤT TRONG NGÀY 10/5/2018 60 Giây Chiều - Ngày 09/05/2018 - Tin Tức Mới Nhất An ninh ngày mới ngày 09.05.2018 - Tin tức cập nhật TRỰC TIẾP THỜI SỰ BIỂN ĐÔNG 10/05 Cận cảnh Tàu Việt Nam trong diễn tập Komodo 2018 Hai Chị Em - Trung Hậu và Thuỵ Vân Hội nghị Trung ương 7: Sẽ có quyết sách dẹp vấn nạn "cả họ làm quan" (TTXVN/Vietnam+) 09/05/2018 21:06 GMT+7 Bản in Đại biểu dự hội nghị. (Ảnh: Phương Hoa/TTXVN) Hội nghị lần thứ 7, Ban Chấp hành Trung ương Đảng khóa XII, diễn ra từ ngày 7-12/5, tập trung thảo luận, cho ý kiến về các nội dung: xây dựng đội ngũ cán bộ các cấp, nhất là cấp chiến lược đủ phẩm chất, năng lực và uy tín, ngang tầm nhiệm vụ; cải cách chính sách tiền lương đối với cán bộ, công chức, viên chức, lực lượng vũ trang và người lao động trong các doanh nghiệp; cải cách chính sách bảo hiểm xã hội; và một ...
(ĐC sưu tầm trên NET) Giang hồ Sài Gòn trước 1975: Trùm du đãng Mã Thầu Dậu Mã Thầu Dậu nhận tất cả đơn đặt hàng giải quyết ân oán trong đời thường và trong làm ăn. "Tiền nào của ấy" nên mỗi dịch vụ đều có mức giá khác nhau. Trùm du đãng một vùng rộng lớn không hành xử như đám du đãng cắc ké. Chợ Lớn có trùm du đãng ba Tàu Mã Thầu Dậu (Con ngựa đầu gà) nổi tiếng với vai trò đâm thuê chém mướn. Trùm bảo kê Mã Thầu Dậu xuất thân từ một đứa bé con nhà người Hoa gốc Quảng Đông nghèo. Tuổi thơ Mã Thầu Dậu trải qua nhiều cơ cực, từ bửa củi thuê, bưng cà phê, bưng hủ tiếu đến cả rửa chén bát thuê. Mã Thầu Dậu khởi nghiệp trùm du đãng khét tiếng trên hè phố La Kai (đường Nguyễn Tri Phương, quận 5 ngày nay). Hắn nổi danh nhờ những vụ trừ khử đám du thủ du thực cho các chủ tiệm buôn giàu có người Hoa và dần đi theo con đường đâm thuê chém mướn chuyên nghiệp. Khu vực chợ Lớn xưa Băng du đãng Mã Thầu Dậu h...
Nhận xét
Đăng nhận xét