CÂU CHUYỆN TÌNH BÁO 181
(ĐC sưu tầm trên NET)
Nghiên cứu tình báo của Bộ Ngoại giao Mỹ thời chiến tranh Việt Nam được tiến hành từ Phòng nghiên cứu tình báo (INR) thuộc cơ quan này. Bộ Ngoại giao Hoa Kỳ bắt đầu khảo sát chi tiết tình hình Việt Nam vào năm 1968, dưới chỉ đạo của Thomas L. Hughes, lúc đó là giám đốc INR.
Bản nghiên cứu đề tựa A Review of Judgments in INR Reports (Khảo sát đánh giá các báo cáo INR) hoàn thành năm 1969 và vẫn là tài liệu tuyệt mật trong nhiều thập niên cho đến cách đây vài năm.
Phần quan trọng nhất trong tài liệu là báo cáo tổng kết quan điểm Bộ Ngoại giao Mỹ về các chủ đề tình báo khác nhau suốt thập niên 1960, được trình bày bởi W. Dean Howells và Dorothy R. Avery (hai viên chức INR đặc trách Đông Nam Á). Cần nhấn mạnh, Bộ Ngoại giao là một trong những cơ quan quan trọng hàng đầu Nội các Hoa Kỳ, nơi đóng vai trò hoạch định chính sách cũng như chiến lược đối ngoại.
Trong các động thái đối với tình hình Việt Nam thời thập niên 1960,
nhiệm vụ đầu tàu trong chiến lược đối sách của Bộ Ngoại giao Mỹ càng
được tô đậm. Sau khi nhậm chức tổng thống, John F. Kennedy chỉ định
Roger A. Hilsman làm giám đốc INR.
Chủ trương biến INR thành bộ máy hoạch định chính sách, Hilsman kích hoạt loạt thay đổi trong Bộ Ngoại giao. Kennedy tin cậy Hilsman đến mức thường tham khảo ý kiến nhân vật này hơn cả Ngoại trưởng Dean Rusk. Khi vụ khủng hoảng tên lửa Cuba xảy ra năm 1962, Hilsman đóng vai trò quan trọng trong điều phối tình báo cũng như tổ chức loạt cuộc họp giữa Kennedy và EXCOM (Ủy ban điều hành thuộc Hội đồng An ninh quốc gia Hoa Kỳ).
Từng là cựu binh Thế chiến thứ hai tại Myanmar (khi làm việc cho OSS - tiền thân CIA), Hilsman rành rẽ các thủ thuật của chiến tranh bất qui ước, phù hợp với quan điểm Kennedy về chiến tranh chống du kích tại Việt Nam.
Hilsman thậm chí còn soạn cẩm nang đầu tiên về phương pháp chống chiến tranh du kích được phân phát cho quân đội Mỹ, trong đó ghi rõ cách thức đối phó cuộc chiến tranh nhân dân chống Tổng thống Ngô Đình Diệm tại Nam Việt Nam. Nói cách khác, Hilsman đã đặt nền tảng cho cuộc chiến tình báo của Bộ ngoại giao Mỹ tại Việt Nam.
INR chỉ khoảng 350 nhân viên, được phân thành hai nhóm chính - nhóm liên lạc và nhóm phân tích thông tin tình báo. Nhóm liên lạc có nhiệm vụ điều phối và hợp tác với các cơ quan liên quan tình báo khác, giúp ngoại trưởng quyết định chính sách như thế nào đối với các đề nghị từ CIA cho những chiến dịch đặc biệt.
Trong khi đó, nhóm phân tích làm việc chặt chẽ với các tuyến tình báo mặt trận (chẳng hạn Phòng nghiên cứu Liên Xô, nơi thu thập thông tin tình báo liên quan Xô Viết và hệ thống vệ tinh do thám Đông Âu). Với cuộc chiến Việt Nam, nhóm phân tích INR làm việc cùng Phòng Viễn Đông (RFE), nơi có các chuyên gia phân tích tình báo lão luyện.
Từ năm 1962-1966, RFE nằm dưới sự chỉ đạo của Allen S. Whiting, một tay gạo cội trong làng phân tích tình báo, từng nổi tiếng với công trình nghiên cứu China Crosses the Yalu (viết về những thất bại nghiêm trọng trong chính sách và tình báo thời chiến tranh Triều Tiên).
Khi được Hilsman cất nhắc ở vị trí sếp RFE, Whiting tuyển dụng (cô)
Evelyn Colbert làm trưởng chi nhánh văn phòng Viễn Đông. Là một bản sao
của Hilsman, Colbert, 43 tuổi đã trở thành thế hệ phân tích gia (về tình
báo) đầu tiên tại cuộc chiến Việt Nam.
Trong khi Colbert đặc trách thông tin tình báo Nam Việt Nam, một nữ nhân viên RFE khác - Dorothy Avery - được giao nhiệm vụ nghiên cứu thông tin tình báo Bắc Việt. Dorothy Avery có bằng thạc sĩ Đông Á học tại Đại học Harvard, từng được CIA thuê thực hiện các công trình phân tích về cộng sản Trung Quốc. Ngoài ra, RFE còn có Louis G. Sarris, được giao nhiệm vụ khảo sát Việt Nam không lâu sau chuyến công lý sang Mỹ của tổng thống Ngô Đình Diệm.
INR làm gì?
Trong năm đầu tiên Kennedy ở ghế tổng thống, INR đóng vai trò quan trọng trong phác họa chính sách và tiếp tục khẳng định rằng Nam Việt Nam còn có một số gương mặt khác có thể thay tổng thống Diệm; rằng vấn đề khó khăn của Mỹ ở Nam Việt Nam xuất phát chủ yếu từ chương trình viện trợ vô bổ của Washington; rằng sức mạnh của Mặt trận giải phóng miền Nam khởi nguồn từ các làng quê Nam Việt Nam chứ không phải do sự trà trộn của bộ đội miền Bắc.
Sau chuyến thị sát thực tế của tướng Maxwell D. Taylor và phó cố vấn an ninh quốc gia Walt W. Rostow, INR tung ra báo cáo, ghi: "Điểm yếu cơ bản trong kế sách chống chiến tranh du kích (của Mỹ) là quan điểm phổ biến (từ Washington) rằng cuộc khủng hoảng Việt Nam có thể giải quyết thuần túy bằng viện trợ ào ạt".
Tháng 1-1962, Kennedy yêu cầu Hilsman sang Nam Việt Nam. Viên giám đốc INR nhận thấy nỗ lực chống chiến tranh du kích bằng biện pháp quân sự là không đủ; đồng thời ủng hộ ý tưởng ấp chiến lược (sau chuyến đi, Hilsman đệ trình Kennedy báo cáo A Strategic Concept for South Vietnam).
Mùa xuân 1963, Kennedy bổ nhiệm Hilsman làm trợ lý ngoại trưởng đặc trách các vấn đề Viễn Đông. Ghế giám đốc INR được giao cho Thomas L. Hughes.
Ngày 22-10-1963, INR tung ra báo cáo Statistics on the War Effort in South Vietnam Show Unfavorable Trends (Thống kê về nỗ lực chiến tranh tại Nam Việt Nam cho thấy những khuynh hướng bất lợi). Báo cáo đã gây làn sóng chống đối dữ dội tại nhiều cơ quan chính phủ Mỹ.
Ban tham mưu Lầu Năm Góc chỉ trích mạnh báo cáo, cho rằng chuyên gia
INR không đủ kinh nghiệm để bàn về cuộc chiến "đang thắng lợi" tại Nam
Việt Nam của Mỹ. Bộ trưởng Quốc phòng Robert S. McNamara chỉ trích báo
cáo của INR không tiếc lời.
Ngoại trưởng Dean Rusk buộc phải gọi sếp INR Thomas L. Hughes vào văn phòng và đề nghị không tiếp tục làm nản lòng Lầu Năm Góc về viễn cảnh chiến thắng tại Nam Việt Nam (bản thân Rusk ủng hộ chính sách mạnh tay trong cuộc chiến chống cộng tại Đông Nam Á).
Đến thời Tổng thống Lyndon B. Johnson, tình hình Việt Nam diễn biến ngày càng phức tạp. INR đã sai khi đánh giá thấp Việt Nam Dân chủ Cộng hòa. Cho đến sự kiện Vịnh Bắc bộ vào tháng 8-1964, không có bất kỳ nhận định tình báo nào của Mỹ cho thấy Hà Nội sẽ đưa quân vào miền Nam.
Tình báo Mỹ tin rằng Bắc Việt không dám đụng độ trực tiếp với quân đội Mỹ (mà thay vào đó chỉ ủng hộ Mặt trận giải phóng miền Nam) và Washington cũng không dám mạnh tay với Hà Nội do e ngại Bắc Kinh và Moscow vào cuộc (trong khi sếp CIA, John McCone liên tục yêu cầu Lyndon B. Johnson dội bom Hà Nội, INR cũng liên tiếp cảnh báo khả năng Trung Quốc chính thức đưa quân sang ủng hộ Bắc Việt Nam).
Trong một hội thảo năm 1991, nguyên giám đốc INR, Thomas L. Hughes đã nhắc lại mâu thuẫn trong nội bộ cộng đồng tình báo Mỹ về các phân tích tình hình chiến trường Việt Nam. Năm 1966, tình báo Mỹ vẫn không nắm chính xác tỉ lệ quân đội Bắc Việt tại Nam Việt Nam cũng như lực lượng vũ trang Mặt trận giải phóng miền Nam.
Cựu viên chức INR Louis Sarris cho biết cơ quan mình thường xuyên bị "đe dọa" từ Lầu Năm Góc, đặc biệt xung đột với các ý kiến xung quanh đánh giá thực lực nội các Sài Gòn.
Cụ thể một trường hợp: trong khi Ban cố vấn quân sự Hoa Kỳ (MACV) tin tưởng Thủ tướng VNCH Nguyễn Cao Kỳ, báo cáo INR cho biết ông Kỳ đã dùng lực lượng Cảnh sát Quốc gia - nằm dưới chỉ huy của đồng minh Nguyễn Ngọc Loan, theo cách như Tổng thống Ngô Đình Diệm dùng đảng Cần Lao - cốt để củng cố chiến thắng trong cuộc bầu cử 1966.
Và có lần trong khi tư lệnh trưởng MACV William C. Westmoreland có mặt tại Washington giục Nhà Trắng đổ thêm bom vào Việt Nam, Louis Sarris trong chuyến kinh lý Sài Gòn đã được tướng Fred Weyand tâm sự: "Tôi chẳng thể hiểu cái mà ông Westmoreland nói về ánh sáng cuối đường hầm là cái quái gì. Chúng tôi có thể bị tấn công bất cứ lúc nào và chúng tôi không bao giờ biết kẻ thù xuất hiện từ đâu".
Điều này cuối cùng đã xảy ra vào Tết Mậu Thân 1968. Như tất cả cơ quan tình báo Mỹ, INR hoàn toàn bất ngờ trước sự kiện "Việt Cộng" tấn công Sài Gòn. INR đã rơi vào bẫy khi tin rằng Bắc Việt chỉ đột kích căn cứ quân sự Mỹ tại Khe Sanh.
10 ngày trước sự kiện Mậu Thân, INR thật ra đã phân tích một thông tin tình báo cho thấy loạt tấn công nhỏ của Bắc Việt nhằm lôi kéo sự chú ý và giãn độ tập trung của quân đội Mỹ tại các thành phố lớn…
Các chiến dịch quân báo
Trong phiên họp Hội đồng An ninh quốc gia ngày 29-4-1961, Tổng thống John F. Kennedy chuẩn y việc Cơ quan an ninh quốc gia Hoa Kỳ (NSA) hỗ trợ lực lượng quân báo Việt Nam Cộng hòa (VNCH). Thời điểm đó, sự chia sẻ thông tin tình báo với nước ngoài còn là điều bất thường đối với ngành an ninh-tình báo Mỹ.
Phó đô đốc Lawrence H. Frost - giám đốc NSA - đã ra lệnh Cục an ninh quân đội (ASA) lập tức triển khai kế hoạch. Vài tuần sau, Đơn vị chiến dịch đặc biệt ASA lên đường sang Nam Việt Nam.
Ngày 13-5-1961, những đôi giày bóng lộn của 93 sĩ quan quân báo Mỹ đã bước ra khỏi chiếc C-130 đỗ tại phi trường Tân Sơn Nhất. Xác định vị trí tình nghi đóng quân của du kích Việt Nam là một trong những nhiệm vụ của Đơn vị chiến dịch đặc biệt ASA.
Ngoài ra, còn có chiến dịch White Birch gồm nghe lén; và chiến dịch thứ ba - Sabertooth - gồm huấn luyện quân báo VNCH kỹ thuật gián điệp hậu tuyến cũng như giải mã. Căn cứ Đơn vị chiến dịch đặc biệt ASA (còn gọi là Đơn vị nghiên cứu vô tuyến thứ ba) nằm trong một nhà chứa máy bay cũ tại Tân Sơn Nhất, nóng hầm hập và ngột ngạt (trong khi đó, sếp Đơn vị chiến dịch đặc biệt ASA được "bố trí" ở tại khách sạn Majestic).
Trong 7 tháng, lực lượng quân báo Mỹ tại Nam Việt Nam tăng hơn gấp đôi. Đến tháng 12-1961, lực lượng này đã lên đến 236 người, nằm rải rác tại 18 vị trí nghe lén, trong đó có điểm nghe lén và bắt tín hiệu quân báo Bắc Việt Nam đặt tại Phú Bài, gần khu vực phi quân sự (DMZ).
Công việc của quân báo Mỹ nguy hiểm không kém lính tác chiến, đặc biệt tại một chiến trường mà lính Mỹ "bị đột kích nhiều hơn mặt đối mặt kẻ thù" - như miêu tả của chính John F. Kennedy.
Trong số sĩ quan quân báo thuộc Đơn vị chiến dịch đặc biệt ASA, có James T. Davis. Nhóm Davis được phân công truy tìm du kích tại vùng ven Sài Gòn. Muốn như vậy, James T. Davis phải ra sát khu vực tình nghi để bắt sóng liên lạc du kích. Ngày kia, cùng toán lính VNCH, James T. Davis mang theo thiết bị PRC-10 để bắt tín hiệu sóng ngắn.
Ba ngày trước Giáng sinh 1961, James T. Davis lại lên chiếc jeep cùng toán lính bảo vệ VNCH phóng về phía Tây Sài Gòn. Khi cách căn cứ khoảng 15km, nhóm James T. Davis bị tấn công.
Cầm khẩu carbine M-1, James T. Davis bóp cò. Tuy nhiên, họ đã bị vây kín. Sau vài phút, 9 tay súng VNCH bị thiệt mạng. Một viên AK-47 bắn trúng đầu Davis từ phía sau. Davis đổ gục, trở thành sĩ quan quân báo Mỹ đầu tiên chết tại chiến trường Việt Nam (hai tuần sau, Đơn vị nghiên cứu vô tuyến thứ ba đổi tên thành Trạm Davis và thậm chí một doanh trại NSA tại Mỹ cũng lấy tên này).
Tại Washington, Kennedy quyết định Mỹ hóa cuộc chiến Việt Nam, yêu cầu CIA tăng cường chiến dịch đột nhập phía bên kia DMZ. Một đêm tối, quân báo VNCH nhảy dù vào chiến tuyến thuộc kiểm soát Bắc Việt và được đón chào bằng loạt súng liên thanh. Cuối cùng, cho đến khi từ giã Nhà Trắng đột ngột bởi bị ám sát, John F. Kennedy vẫn không hài lòng kết quả cụ thể nào của quân báo Mỹ tại chiến trường Việt Nam…
Giữa năm 1964, đã có 16.000 lính Mỹ tại Việt Nam và cuộc chiến bắt đầu ngốn 1,5 triệu USD/ngày. Hủy bỏ kế hoạch trà trộn vào Bắc Việt của CIA, tân Tổng thống Lyndon B. Johnson yêu cầu bộ tổng tham mưu Mỹ phác thảo chiến dịch nặng tay hơn, đủ mạnh để buộc Bắc Việt ngưng cuộc chiến du kích tại miền Nam.
Chiến dịch OPLAN 34A ra đời, một kịch bản phối hợp giữa CIA và Lầu Năm Góc, một kế hoạch "hoàn toàn vô giá trị" - như thú nhận của (nguyên) Bộ trưởng Quốc phòng Mỹ Robert McNamara sau này. Trong khi đó, hoạt động quân báo Mỹ vẫn triển khai.
Đầu năm 1964, số lính-sĩ quan quân báo Mỹ tại Việt Nam đã lên đến 1.747 người, trong đó 300 người đóng ở Tân Sơn Nhất. Ngoài ra, còn có nhóm quân báo thủy quân lục chiến đóng ở Pleiku và quân báo không quân đóng ở Đà Nẵng.
Một mạng kết nối các điểm nghe lén được thiết lập bí mật ở Nha Trang, Cần Thơ, Biên Hòa, Pleiku, Đà Nẵng và Ban Mê Thuột - tất cả đều được đấu liên lạc trực tiếp với tổng hành dinh NSA tại Mỹ qua một sợi cáp ngầm dưới biển kéo từ Nam Việt Nam đến Philippines. Mật danh Wetwash, sợi cáp này còn truyền về bộ chỉ huy NSA các thông điệp phức tạp vượt quá khả năng giải mã của quân báo Mỹ tại Sài Gòn…
Theo tác giả James Bamford trong Body of Secrets, một báo cáo tuyệt mật NSA từng ghi: "Một bức tranh rõ ràng và thậm chí mang tính đe dọa về sự thành công của quân báo Việt Cộng chống lại kỹ thuật quân báo phe đồng minh (ở đây hiểu là Mỹ) đã dần xuất hiện".
Cuối thập niên 1960, một số vị trí nghe lén của quân báo Việt Nam bị phát hiện. "Đánh
giá thiết bị tịch thu được đã cho thấy đơn vị quân báo kẻ thù có thể
nghe hầu như tất cả liên lạc Morse của Mỹ và đồng minh. Tài liệu cho
thấy đối phương đã rất am hiểu kỹ thuật quân báo…".
Tình báo Mỹ đánh giá rằng Bắc Việt có khoảng 5.000 chuyên viên bắt tín hiệu và "kẻ thù đang thực hiện một chiến dịch quân báo cực kỳ phức tạp nhắm trực tiếp vào Mỹ và lực lượng đồng minh tại Nam Việt Nam". Hậu quả của lỗ hỗng quân báo Mỹ và kỹ thuật quân báo Bắc Việt đã trở thành vấn đề nghiêm trọng.
Tướng Charles R. Myers (sĩ quan quân báo từng làm việc tại Việt Nam) kể rằng "kẻ thù thường biến mất khỏi vị trí nào đó trước khi một kế hoạch chiến dịch oanh tạc định sẵn của Mỹ tiến hành" và "B-52 thường xuyên dội bom xuống các địa điểm không người mà trước đó quân báo Mỹ từng cung cấp thông tin về sự tập trung đông của Việt Cộng".
Theo vài phân tích mật của NSA thời điểm đó, một trong những nguyên nhân khiến quân báo Mỹ thất bại là sự rò rỉ từ quân báo VNCH. Đó là chưa kể việc quân báo Việt Cộng học được cách giải mã từ chính những thiết bị quân báo Mỹ mà họ tịch thu được, đặc biệt thiết bị TPHZ-3 - có thể nghe 30 line điện thoại cùng một lúc.
Năm 1967, từ thiết bị này, quân báo Mỹ đã nghe được 6.606.539 cuộc điện đàm vô tuyến và hơn 500.000 điện đàm điện thoại. Trong một lần, TPHZ-3 đã cứu được mạng tướng Creighton W. Abrams (phó tư lệnh quân đội Mỹ tại Việt Nam). Khi Abrams chuẩn bị lên trực thăng từ Sài Gòn ra Phú Bài, quân báo Việt Cộng đã lập tức truyền tín hiệu báo cáo trung tâm về lịch trình của Abrams. Tuy nhiên, lần này, TPHZ-3 đã bắt được tín hiệu liên lạc trên; nếu không, Abrams đã thiệt mạng.
Quân báo Việt Cộng còn tung tin giả bằng cách ngụy tạo thông điệp và "sơ hở" gửi truyền; đồng thời dụ quân báo Mỹ truyền thông tin nhạy cảm để họ bắt được! NSA gọi đây là kỹ thuật "sự lừa phỉnh viễn thông mô phỏng" (ICD). Bằng ICD, Việt Cộng đã bắn ít nhất 8 trực thăng Mỹ trong một chiến dịch. ICD cũng được thể hiện ở hình thức khác.
Trong một vụ đánh ở căn cứ không quân Mỹ tại Đà Nẵng, du kích Việt Cộng đầu tiên giết chết lính canh Mỹ rồi dùng điện thoại "báo động" rằng góc mé xa căn cứ "đang bị cộng quân tấn công". Toán lính canh Mỹ lập tức được điều động đến khu vực "đang giao tranh".
Hậu quả, an ninh căn cứ bị bỏ lỏng và căn cứ bị bộ đội tấn công bất ngờ. Lần đó, trị giá số máy bay Mỹ bị phá hỏng lên đến 15 triệu USD. Lần khác, Việt Cộng dùng tần số liên lạc trực thăng để giả giọng trung tâm chỉ huy, yêu cầu trực thăng chuyển hướng bay và cuối cùng nó bị bắn cháy.
Theo cùng cách, "có vô số lần mà máy bay Mỹ bị "hướng dẫn" dội bom vào chính đồng đội họ; và nhiều lần khác, du kích có thể ngăn được cuộc tấn công của Mỹ bằng cách tạo ra mệnh lệnh ngừng bắn giả" - James Bamford viết.
Mạnh Kim
Trong khi CIA phân
tích chính xác Cuộc chiến 6 ngày giữa Israel và các nước ẢRập trong năm
1967, cơ quan này lại không hề có chút thông tin gì 6 năm sau đókhi các
lực lượng của Ai Cập và Syria cùng tiến hành tấn công vào Israel ở Samạc
Sinai và Cao nguyên Golan trong suốt những ngày lễ sám hối của người
DoThái.
Những suy đoán thông
thường của mạng lưới tình báo Mỹ đã không thể dự đoánđược việc Liên Xô
sụp đổ vào năm 1991, trong khi điều này có thể được linh cảmkhi Tổng
thống Mikhail Gorbachev tiến hành cải tổ, nền kinh tế đình đốn, mộtloạt
các quốc gia ở Đông-Trung Âu sụp đổ và các phong trào đòi độc lập của
mộtsố quốc gia trong cộng đồng.
Vào tháng 5/1998,
CIA cũng không hề biết ý định của Ấn Độ thực hiện các vụthử hạt nhân
dưới lòng đất. Richard Shelby - người sau này trở thành chủ tịchcủa Ủy
ban Tình báo Thượng viện - đã gọi đây là "một thất bại to lớn của nước
Mỹtrong việc thu thập thông tin tình báo". Cơ quan tình báo Mỹ đã vớt
vát phần nàochỉ 2 tuần sau đó khi họ cảnh báo rằng Pakistan cũng đang
chuẩn bị thực hiện cácvụ thử hạt nhân của họ vào ngày 28/5/1998.
Trong
bản báo cáo về vụ tấn công 11/9/2001, Ủy ban 11/9 nhấn mạnh rằng
mạnglưới tình báo - quay cuồng trong "cả núi ưu tiên, ngân sách eo hẹp,
cấu trúc lỗithời, và các kình địch nội bộ" - đã không thể bao quát được
nguy cơ toàn cảnhcủa "mạng lưới khủng bố xuyên quốc gia" xuyên suốt
những năm 1990 cho tới sựkiện 11/9.
Vào
tháng 2/2003, xuất hiện trước Hội đồng Bảo An Liên Hợp Quốc để trình
bàyvề vấn đề Iraq, Ngoại trưởng Mỹ Colin Powell tuyên bố rằng các cáo
buộc của ông vềcác vũ khí hủy diệt hàng loạt của Iraq (WMD) dựa trên
"thông tin tình báo vữngchắc".
Nguồn : VietnamNet
Những thất bại của tình báo Mỹ ở Bắc Việt
Tình báo Mỹ tại chiến trường Việt Nam: Những chuyện chưa từng được kể
14:15 06/05/2016Không chỉ Cục Tình báo Trung ương (CIA), Cơ quan Quân báo Quốc phòng (DIA) thuộc Lầu Năm Góc, Cơ quan An ninh quốc gia (NSA) và Văn phòng do thám quốc gia (NRO), Bộ Ngoại giao Mỹ cũng tham gia tình báo thời chiến tranh Việt Nam. Đây là một trong những bí mật dai dẳng và chỉ được công bố mới đây, dựa vào tài liệu giải mật được đăng trên website Cục Tàng thư quốc gia Hoa Kỳ. Cụ thể, Bộ ngoại giao Mỹ làm gì tại chiến trường Việt Nam?
Nghiên cứu tình báo của Bộ Ngoại giao Mỹ thời chiến tranh Việt Nam được tiến hành từ Phòng nghiên cứu tình báo (INR) thuộc cơ quan này. Bộ Ngoại giao Hoa Kỳ bắt đầu khảo sát chi tiết tình hình Việt Nam vào năm 1968, dưới chỉ đạo của Thomas L. Hughes, lúc đó là giám đốc INR.
Bản nghiên cứu đề tựa A Review of Judgments in INR Reports (Khảo sát đánh giá các báo cáo INR) hoàn thành năm 1969 và vẫn là tài liệu tuyệt mật trong nhiều thập niên cho đến cách đây vài năm.
Phần quan trọng nhất trong tài liệu là báo cáo tổng kết quan điểm Bộ Ngoại giao Mỹ về các chủ đề tình báo khác nhau suốt thập niên 1960, được trình bày bởi W. Dean Howells và Dorothy R. Avery (hai viên chức INR đặc trách Đông Nam Á). Cần nhấn mạnh, Bộ Ngoại giao là một trong những cơ quan quan trọng hàng đầu Nội các Hoa Kỳ, nơi đóng vai trò hoạch định chính sách cũng như chiến lược đối ngoại.
| Nhóm sĩ quan quân báo Mỹ thuộc lực lượng 245th PSYOP tại Pleiku đầu năm 1967. |
Chủ trương biến INR thành bộ máy hoạch định chính sách, Hilsman kích hoạt loạt thay đổi trong Bộ Ngoại giao. Kennedy tin cậy Hilsman đến mức thường tham khảo ý kiến nhân vật này hơn cả Ngoại trưởng Dean Rusk. Khi vụ khủng hoảng tên lửa Cuba xảy ra năm 1962, Hilsman đóng vai trò quan trọng trong điều phối tình báo cũng như tổ chức loạt cuộc họp giữa Kennedy và EXCOM (Ủy ban điều hành thuộc Hội đồng An ninh quốc gia Hoa Kỳ).
Từng là cựu binh Thế chiến thứ hai tại Myanmar (khi làm việc cho OSS - tiền thân CIA), Hilsman rành rẽ các thủ thuật của chiến tranh bất qui ước, phù hợp với quan điểm Kennedy về chiến tranh chống du kích tại Việt Nam.
Hilsman thậm chí còn soạn cẩm nang đầu tiên về phương pháp chống chiến tranh du kích được phân phát cho quân đội Mỹ, trong đó ghi rõ cách thức đối phó cuộc chiến tranh nhân dân chống Tổng thống Ngô Đình Diệm tại Nam Việt Nam. Nói cách khác, Hilsman đã đặt nền tảng cho cuộc chiến tình báo của Bộ ngoại giao Mỹ tại Việt Nam.
INR chỉ khoảng 350 nhân viên, được phân thành hai nhóm chính - nhóm liên lạc và nhóm phân tích thông tin tình báo. Nhóm liên lạc có nhiệm vụ điều phối và hợp tác với các cơ quan liên quan tình báo khác, giúp ngoại trưởng quyết định chính sách như thế nào đối với các đề nghị từ CIA cho những chiến dịch đặc biệt.
Trong khi đó, nhóm phân tích làm việc chặt chẽ với các tuyến tình báo mặt trận (chẳng hạn Phòng nghiên cứu Liên Xô, nơi thu thập thông tin tình báo liên quan Xô Viết và hệ thống vệ tinh do thám Đông Âu). Với cuộc chiến Việt Nam, nhóm phân tích INR làm việc cùng Phòng Viễn Đông (RFE), nơi có các chuyên gia phân tích tình báo lão luyện.
Từ năm 1962-1966, RFE nằm dưới sự chỉ đạo của Allen S. Whiting, một tay gạo cội trong làng phân tích tình báo, từng nổi tiếng với công trình nghiên cứu China Crosses the Yalu (viết về những thất bại nghiêm trọng trong chính sách và tình báo thời chiến tranh Triều Tiên).
| Roger A. Hilsman. |
Trong khi Colbert đặc trách thông tin tình báo Nam Việt Nam, một nữ nhân viên RFE khác - Dorothy Avery - được giao nhiệm vụ nghiên cứu thông tin tình báo Bắc Việt. Dorothy Avery có bằng thạc sĩ Đông Á học tại Đại học Harvard, từng được CIA thuê thực hiện các công trình phân tích về cộng sản Trung Quốc. Ngoài ra, RFE còn có Louis G. Sarris, được giao nhiệm vụ khảo sát Việt Nam không lâu sau chuyến công lý sang Mỹ của tổng thống Ngô Đình Diệm.
INR làm gì?
Trong năm đầu tiên Kennedy ở ghế tổng thống, INR đóng vai trò quan trọng trong phác họa chính sách và tiếp tục khẳng định rằng Nam Việt Nam còn có một số gương mặt khác có thể thay tổng thống Diệm; rằng vấn đề khó khăn của Mỹ ở Nam Việt Nam xuất phát chủ yếu từ chương trình viện trợ vô bổ của Washington; rằng sức mạnh của Mặt trận giải phóng miền Nam khởi nguồn từ các làng quê Nam Việt Nam chứ không phải do sự trà trộn của bộ đội miền Bắc.
Sau chuyến thị sát thực tế của tướng Maxwell D. Taylor và phó cố vấn an ninh quốc gia Walt W. Rostow, INR tung ra báo cáo, ghi: "Điểm yếu cơ bản trong kế sách chống chiến tranh du kích (của Mỹ) là quan điểm phổ biến (từ Washington) rằng cuộc khủng hoảng Việt Nam có thể giải quyết thuần túy bằng viện trợ ào ạt".
Tháng 1-1962, Kennedy yêu cầu Hilsman sang Nam Việt Nam. Viên giám đốc INR nhận thấy nỗ lực chống chiến tranh du kích bằng biện pháp quân sự là không đủ; đồng thời ủng hộ ý tưởng ấp chiến lược (sau chuyến đi, Hilsman đệ trình Kennedy báo cáo A Strategic Concept for South Vietnam).
Mùa xuân 1963, Kennedy bổ nhiệm Hilsman làm trợ lý ngoại trưởng đặc trách các vấn đề Viễn Đông. Ghế giám đốc INR được giao cho Thomas L. Hughes.
Ngày 22-10-1963, INR tung ra báo cáo Statistics on the War Effort in South Vietnam Show Unfavorable Trends (Thống kê về nỗ lực chiến tranh tại Nam Việt Nam cho thấy những khuynh hướng bất lợi). Báo cáo đã gây làn sóng chống đối dữ dội tại nhiều cơ quan chính phủ Mỹ.
| Trụ sở Bộ tham mưu quân đội Hoa Kỳ tại Sài Gòn. |
Ngoại trưởng Dean Rusk buộc phải gọi sếp INR Thomas L. Hughes vào văn phòng và đề nghị không tiếp tục làm nản lòng Lầu Năm Góc về viễn cảnh chiến thắng tại Nam Việt Nam (bản thân Rusk ủng hộ chính sách mạnh tay trong cuộc chiến chống cộng tại Đông Nam Á).
Đến thời Tổng thống Lyndon B. Johnson, tình hình Việt Nam diễn biến ngày càng phức tạp. INR đã sai khi đánh giá thấp Việt Nam Dân chủ Cộng hòa. Cho đến sự kiện Vịnh Bắc bộ vào tháng 8-1964, không có bất kỳ nhận định tình báo nào của Mỹ cho thấy Hà Nội sẽ đưa quân vào miền Nam.
Tình báo Mỹ tin rằng Bắc Việt không dám đụng độ trực tiếp với quân đội Mỹ (mà thay vào đó chỉ ủng hộ Mặt trận giải phóng miền Nam) và Washington cũng không dám mạnh tay với Hà Nội do e ngại Bắc Kinh và Moscow vào cuộc (trong khi sếp CIA, John McCone liên tục yêu cầu Lyndon B. Johnson dội bom Hà Nội, INR cũng liên tiếp cảnh báo khả năng Trung Quốc chính thức đưa quân sang ủng hộ Bắc Việt Nam).
Trong một hội thảo năm 1991, nguyên giám đốc INR, Thomas L. Hughes đã nhắc lại mâu thuẫn trong nội bộ cộng đồng tình báo Mỹ về các phân tích tình hình chiến trường Việt Nam. Năm 1966, tình báo Mỹ vẫn không nắm chính xác tỉ lệ quân đội Bắc Việt tại Nam Việt Nam cũng như lực lượng vũ trang Mặt trận giải phóng miền Nam.
Cựu viên chức INR Louis Sarris cho biết cơ quan mình thường xuyên bị "đe dọa" từ Lầu Năm Góc, đặc biệt xung đột với các ý kiến xung quanh đánh giá thực lực nội các Sài Gòn.
Cụ thể một trường hợp: trong khi Ban cố vấn quân sự Hoa Kỳ (MACV) tin tưởng Thủ tướng VNCH Nguyễn Cao Kỳ, báo cáo INR cho biết ông Kỳ đã dùng lực lượng Cảnh sát Quốc gia - nằm dưới chỉ huy của đồng minh Nguyễn Ngọc Loan, theo cách như Tổng thống Ngô Đình Diệm dùng đảng Cần Lao - cốt để củng cố chiến thắng trong cuộc bầu cử 1966.
Và có lần trong khi tư lệnh trưởng MACV William C. Westmoreland có mặt tại Washington giục Nhà Trắng đổ thêm bom vào Việt Nam, Louis Sarris trong chuyến kinh lý Sài Gòn đã được tướng Fred Weyand tâm sự: "Tôi chẳng thể hiểu cái mà ông Westmoreland nói về ánh sáng cuối đường hầm là cái quái gì. Chúng tôi có thể bị tấn công bất cứ lúc nào và chúng tôi không bao giờ biết kẻ thù xuất hiện từ đâu".
Điều này cuối cùng đã xảy ra vào Tết Mậu Thân 1968. Như tất cả cơ quan tình báo Mỹ, INR hoàn toàn bất ngờ trước sự kiện "Việt Cộng" tấn công Sài Gòn. INR đã rơi vào bẫy khi tin rằng Bắc Việt chỉ đột kích căn cứ quân sự Mỹ tại Khe Sanh.
10 ngày trước sự kiện Mậu Thân, INR thật ra đã phân tích một thông tin tình báo cho thấy loạt tấn công nhỏ của Bắc Việt nhằm lôi kéo sự chú ý và giãn độ tập trung của quân đội Mỹ tại các thành phố lớn…
| Tiểu đoàn tín hiệu 69th quân đội Hoa Kỳ tại Sài Gòn (nơi xử lý hơn 26.000 cuộc gọi mỗi ngày). |
Trong phiên họp Hội đồng An ninh quốc gia ngày 29-4-1961, Tổng thống John F. Kennedy chuẩn y việc Cơ quan an ninh quốc gia Hoa Kỳ (NSA) hỗ trợ lực lượng quân báo Việt Nam Cộng hòa (VNCH). Thời điểm đó, sự chia sẻ thông tin tình báo với nước ngoài còn là điều bất thường đối với ngành an ninh-tình báo Mỹ.
Phó đô đốc Lawrence H. Frost - giám đốc NSA - đã ra lệnh Cục an ninh quân đội (ASA) lập tức triển khai kế hoạch. Vài tuần sau, Đơn vị chiến dịch đặc biệt ASA lên đường sang Nam Việt Nam.
Ngày 13-5-1961, những đôi giày bóng lộn của 93 sĩ quan quân báo Mỹ đã bước ra khỏi chiếc C-130 đỗ tại phi trường Tân Sơn Nhất. Xác định vị trí tình nghi đóng quân của du kích Việt Nam là một trong những nhiệm vụ của Đơn vị chiến dịch đặc biệt ASA.
Ngoài ra, còn có chiến dịch White Birch gồm nghe lén; và chiến dịch thứ ba - Sabertooth - gồm huấn luyện quân báo VNCH kỹ thuật gián điệp hậu tuyến cũng như giải mã. Căn cứ Đơn vị chiến dịch đặc biệt ASA (còn gọi là Đơn vị nghiên cứu vô tuyến thứ ba) nằm trong một nhà chứa máy bay cũ tại Tân Sơn Nhất, nóng hầm hập và ngột ngạt (trong khi đó, sếp Đơn vị chiến dịch đặc biệt ASA được "bố trí" ở tại khách sạn Majestic).
Trong 7 tháng, lực lượng quân báo Mỹ tại Nam Việt Nam tăng hơn gấp đôi. Đến tháng 12-1961, lực lượng này đã lên đến 236 người, nằm rải rác tại 18 vị trí nghe lén, trong đó có điểm nghe lén và bắt tín hiệu quân báo Bắc Việt Nam đặt tại Phú Bài, gần khu vực phi quân sự (DMZ).
Công việc của quân báo Mỹ nguy hiểm không kém lính tác chiến, đặc biệt tại một chiến trường mà lính Mỹ "bị đột kích nhiều hơn mặt đối mặt kẻ thù" - như miêu tả của chính John F. Kennedy.
Trong số sĩ quan quân báo thuộc Đơn vị chiến dịch đặc biệt ASA, có James T. Davis. Nhóm Davis được phân công truy tìm du kích tại vùng ven Sài Gòn. Muốn như vậy, James T. Davis phải ra sát khu vực tình nghi để bắt sóng liên lạc du kích. Ngày kia, cùng toán lính VNCH, James T. Davis mang theo thiết bị PRC-10 để bắt tín hiệu sóng ngắn.
Ba ngày trước Giáng sinh 1961, James T. Davis lại lên chiếc jeep cùng toán lính bảo vệ VNCH phóng về phía Tây Sài Gòn. Khi cách căn cứ khoảng 15km, nhóm James T. Davis bị tấn công.
Cầm khẩu carbine M-1, James T. Davis bóp cò. Tuy nhiên, họ đã bị vây kín. Sau vài phút, 9 tay súng VNCH bị thiệt mạng. Một viên AK-47 bắn trúng đầu Davis từ phía sau. Davis đổ gục, trở thành sĩ quan quân báo Mỹ đầu tiên chết tại chiến trường Việt Nam (hai tuần sau, Đơn vị nghiên cứu vô tuyến thứ ba đổi tên thành Trạm Davis và thậm chí một doanh trại NSA tại Mỹ cũng lấy tên này).
Tại Washington, Kennedy quyết định Mỹ hóa cuộc chiến Việt Nam, yêu cầu CIA tăng cường chiến dịch đột nhập phía bên kia DMZ. Một đêm tối, quân báo VNCH nhảy dù vào chiến tuyến thuộc kiểm soát Bắc Việt và được đón chào bằng loạt súng liên thanh. Cuối cùng, cho đến khi từ giã Nhà Trắng đột ngột bởi bị ám sát, John F. Kennedy vẫn không hài lòng kết quả cụ thể nào của quân báo Mỹ tại chiến trường Việt Nam…
Giữa năm 1964, đã có 16.000 lính Mỹ tại Việt Nam và cuộc chiến bắt đầu ngốn 1,5 triệu USD/ngày. Hủy bỏ kế hoạch trà trộn vào Bắc Việt của CIA, tân Tổng thống Lyndon B. Johnson yêu cầu bộ tổng tham mưu Mỹ phác thảo chiến dịch nặng tay hơn, đủ mạnh để buộc Bắc Việt ngưng cuộc chiến du kích tại miền Nam.
Chiến dịch OPLAN 34A ra đời, một kịch bản phối hợp giữa CIA và Lầu Năm Góc, một kế hoạch "hoàn toàn vô giá trị" - như thú nhận của (nguyên) Bộ trưởng Quốc phòng Mỹ Robert McNamara sau này. Trong khi đó, hoạt động quân báo Mỹ vẫn triển khai.
Đầu năm 1964, số lính-sĩ quan quân báo Mỹ tại Việt Nam đã lên đến 1.747 người, trong đó 300 người đóng ở Tân Sơn Nhất. Ngoài ra, còn có nhóm quân báo thủy quân lục chiến đóng ở Pleiku và quân báo không quân đóng ở Đà Nẵng.
Một mạng kết nối các điểm nghe lén được thiết lập bí mật ở Nha Trang, Cần Thơ, Biên Hòa, Pleiku, Đà Nẵng và Ban Mê Thuột - tất cả đều được đấu liên lạc trực tiếp với tổng hành dinh NSA tại Mỹ qua một sợi cáp ngầm dưới biển kéo từ Nam Việt Nam đến Philippines. Mật danh Wetwash, sợi cáp này còn truyền về bộ chỉ huy NSA các thông điệp phức tạp vượt quá khả năng giải mã của quân báo Mỹ tại Sài Gòn…
Theo tác giả James Bamford trong Body of Secrets, một báo cáo tuyệt mật NSA từng ghi: "Một bức tranh rõ ràng và thậm chí mang tính đe dọa về sự thành công của quân báo Việt Cộng chống lại kỹ thuật quân báo phe đồng minh (ở đây hiểu là Mỹ) đã dần xuất hiện".
| Phòng xử lý thông tin dữ liệu SpectrumData đặt tại Núi Đất (Mộc Hóa) đầu thập niên 1970. |
Tình báo Mỹ đánh giá rằng Bắc Việt có khoảng 5.000 chuyên viên bắt tín hiệu và "kẻ thù đang thực hiện một chiến dịch quân báo cực kỳ phức tạp nhắm trực tiếp vào Mỹ và lực lượng đồng minh tại Nam Việt Nam". Hậu quả của lỗ hỗng quân báo Mỹ và kỹ thuật quân báo Bắc Việt đã trở thành vấn đề nghiêm trọng.
Tướng Charles R. Myers (sĩ quan quân báo từng làm việc tại Việt Nam) kể rằng "kẻ thù thường biến mất khỏi vị trí nào đó trước khi một kế hoạch chiến dịch oanh tạc định sẵn của Mỹ tiến hành" và "B-52 thường xuyên dội bom xuống các địa điểm không người mà trước đó quân báo Mỹ từng cung cấp thông tin về sự tập trung đông của Việt Cộng".
Theo vài phân tích mật của NSA thời điểm đó, một trong những nguyên nhân khiến quân báo Mỹ thất bại là sự rò rỉ từ quân báo VNCH. Đó là chưa kể việc quân báo Việt Cộng học được cách giải mã từ chính những thiết bị quân báo Mỹ mà họ tịch thu được, đặc biệt thiết bị TPHZ-3 - có thể nghe 30 line điện thoại cùng một lúc.
Năm 1967, từ thiết bị này, quân báo Mỹ đã nghe được 6.606.539 cuộc điện đàm vô tuyến và hơn 500.000 điện đàm điện thoại. Trong một lần, TPHZ-3 đã cứu được mạng tướng Creighton W. Abrams (phó tư lệnh quân đội Mỹ tại Việt Nam). Khi Abrams chuẩn bị lên trực thăng từ Sài Gòn ra Phú Bài, quân báo Việt Cộng đã lập tức truyền tín hiệu báo cáo trung tâm về lịch trình của Abrams. Tuy nhiên, lần này, TPHZ-3 đã bắt được tín hiệu liên lạc trên; nếu không, Abrams đã thiệt mạng.
Quân báo Việt Cộng còn tung tin giả bằng cách ngụy tạo thông điệp và "sơ hở" gửi truyền; đồng thời dụ quân báo Mỹ truyền thông tin nhạy cảm để họ bắt được! NSA gọi đây là kỹ thuật "sự lừa phỉnh viễn thông mô phỏng" (ICD). Bằng ICD, Việt Cộng đã bắn ít nhất 8 trực thăng Mỹ trong một chiến dịch. ICD cũng được thể hiện ở hình thức khác.
Trong một vụ đánh ở căn cứ không quân Mỹ tại Đà Nẵng, du kích Việt Cộng đầu tiên giết chết lính canh Mỹ rồi dùng điện thoại "báo động" rằng góc mé xa căn cứ "đang bị cộng quân tấn công". Toán lính canh Mỹ lập tức được điều động đến khu vực "đang giao tranh".
Hậu quả, an ninh căn cứ bị bỏ lỏng và căn cứ bị bộ đội tấn công bất ngờ. Lần đó, trị giá số máy bay Mỹ bị phá hỏng lên đến 15 triệu USD. Lần khác, Việt Cộng dùng tần số liên lạc trực thăng để giả giọng trung tâm chỉ huy, yêu cầu trực thăng chuyển hướng bay và cuối cùng nó bị bắn cháy.
Theo cùng cách, "có vô số lần mà máy bay Mỹ bị "hướng dẫn" dội bom vào chính đồng đội họ; và nhiều lần khác, du kích có thể ngăn được cuộc tấn công của Mỹ bằng cách tạo ra mệnh lệnh ngừng bắn giả" - James Bamford viết.
Mạnh Kim
Giải mã thất bại thê thảm của CIA trong chiến tranh Việt Nam
©
Sputnik/ RIA Novosti
Ngoài các hình thức can thiệp, tập kích đường biển, đường không, Mỹ còn sử dụng kiểu chiến tranh “không quy ước” trong cuộc xâm lược Việt Nam.
Trong cuộc chiến tranh ở Việt Nam,
ngoài đưa lực lượng vào can thiệp, tập kích đường biển, đường không, Mỹ
còn sử dụng một loại chiến tranh khác có tên gọi Chiến tranh "không quy
ước". Lực lượng thực hiện là Cục tình báo Trung ương Mỹ (CIA) và sau đó
được chuyển cho (SOG).
Vậy diễn biến của loài hình chiến tranh này là thế nào? Báo Kiến Thức xin giới thiệu tới độc giả loạt bài hồ sơ cuộc chiến tranh "không quy ước" mà CIA trực tiếp tiến hành chống phá Việt Nam: Nền tảng ban đầu
Trước khi Mỹ sử dụng quân biệt kích "Mũ nồi xanh" (Special Forces) và Người nhái Hải quân (Navy Seals) để huấn luyện, làm cố vấn cho Việt Nam cộng hòa thực hiện những phi vụ bí mật của "chiến tranh không quy ước" thì từ năm 1957 họ đã huấn luyện cho Sài Gòn lực lượng làm nhiệm vụ đặc biệt.
Năm 1957, chính quyền Eisenhower tài trợ cho quân đội Sài Gòn chương trình bí mật. Theo đó, Trung ương tình báo CIA và Bộ Quốc phòng Mỹ phối hợp để thành lập cho quân đội Sài Gòn một đơn vị biệt kích lấy tên là Liên đoàn quan sát số 1. Đơn vị này có nhiệm vụ bí mật xâm nhập vào hàng ngũ quân đối phương nắm tin, chống phá. Để giữ bí mật, Liên đoàn quan sát số 1 do Ban Nghiên cứu điều hành (thuộc ngành tình báo của Bộ Quốc phòng quản lý), về sau đổi tên là Phòng Liên lạc Phủ Tổng thống, đặt dưới sự theo dõi trực tiếp của Tổng thống Ngô Đình Diệm, do Trung tá đặc vụ Lê Quang Tung làm trưởng phòng.
Năm 1958, cơ quan CIA tại Sài Gòn thành lập Ban Ngoại vụ do Russell Miller, núp dưới bóng một nhà ngoại giao làm trưởng ban. Russell lệnh cho Trung tá Tung chọn lực lượng. Ít lâu sau, 12 sĩ quan trẻ cấp bậc từ thiếu úy đến trung úy được điều về và đặt dưới quyền chỉ huy của Đại úy Ngô Thế Linh. Tháng 11/1958, cả 12 sĩ quan trẻ đều được đưa sang Saipan để huấn luyện. Ở đó, họ được CIA huấn luyện hai tháng về nghiệp vụ tình báo, tác chiến, phương thức phá hoại và chỉ huy đường dây tình báo. Cuối 1958, Đại úy Ngô Thế Linh trở về Sài Gòn và được bổ nhiệm làm Trưởng phòng Bắc Việt (mật danh là Phòng 45), trực thuộc Phòng Liên lạc Phủ Tổng thống, quân số chỉ có hơn chục người. Trong những tháng còn lại của năm 1958, Phòng 45 chuyên lo việc huấn luyện cho nhân viên mới.
Đến giữa năm 1959, một nhóm 5 sĩ quan khác được đưa sang Saipan huấn luyện 6 tuần. Sau đó ít lâu, CIA cử nhân viên đến Sài Gòn huấn luyện hai khóa trong năm, mỗi khóa huấn luyện kéo dài 12 tuần. Lần này, chương trình huấn luyện nhắm vào những sĩ quan trẻ miền Bắc, có gốc là dân tộc thiểu số. Khóa huấn luyện kéo dài đến cuối năm 1959.
Con cưng của "chiến tranh không quy ước"
Thời gian sau, Trung úy Đỗ Văn Tiên (mật danh Francois) nhận lệnh phái một điệp viên đơn tuyến xâm nhập miền Bắc. Francois tìm được một người thích hợp là Phạm Chuyên, nguyên là một Đảng viên biến chất, quê ở tỉnh Quảng Ninh. Chuyên bị vợ bỏ nên anh ta di cư vào Nam. Thoạt đầu Phạm Chuyên từ chối, dù Trung tá Lê Quang Tung đã cho đàn em theo dõi, dụ dỗ suốt nửa năm trời. Cuối cùng, sau 6 tháng cộng tác với Edward Reagan, nhân viên của CIA, họ đã thuyết phục Chuyên.
Trong lúc Chuyên được huấn luyện các kỹ năng thì Trung úy Tiên và Reagan bận rộn phác thảo kế hoạch đưa điệp viên xâm nhập miền Bắc. Theo kế hoạch, Chuyên sẽ nằm vùng dài hạn ở tỉnh Quảng Ninh, một tỉnh ven biển Bắc Bộ, nơi Chuyên rất quen thuộc. CIA cho rằng, việc phái Chuyên xâm nhập miền Bắc bằng đường biển là rất hợp lý. Với niềm hứng khởi ấy, hai chuyên viên tình báo bay ra Đà Nẵng tìm địa điểm xuất phát. Họ thuê một biệt thự kín đáo, có tường bao quanh làm mật cứ.
Trước khi Chuyên được gửi đi, Phòng 45 quyết định triển khai kế hoạch ngắn hạn: Thả điệp viên đến khu phi quân sự, dọc theo vĩ tuyến 17 để thăm dò. Nhân vật được chọn là Vũ Công Hồng (mật danh là Hirondelle).
Hồng được huấn luyện cấp tốc và đưa ra sống tại căn nhà được bảo vệ rất nghiêm mật ở Huế. Thiếu tá Trần Khắc Kính có mật danh là Atlantic, người của Phòng Liên lạc Phủ Tổng Thống chỉ đạo mọi hoạt động xuất phát từ Huế. Sau khi thả qua sông Bến Hải, vài tuần sau, Vũ Công Hồng trở về căn cứ. Hắn cung cấp một ít thông tin về đường đi, nước bước của hệ thống an ninh Bắc Việt, đủ làm cho những nhân viên của Phòng 45 hứng khởi.
Hai tháng sau, Phạm Chuyên (mật danh Ares) được cử trở về miền Bắc thu thập tin tức tình báo, tuyển mộ thêm điệp viên, chuẩn bị tinh thần lót ổ nằm vùng dài hạn. Chuyên sẽ đóng vai một người đánh cá ở một làng nhỏ ở Cẩm Phả, ngay gần vịnh Hạ Long, quê hương của Chuyên trước năm 1958. CIA tính toán, sự trở về của Chuyên có thể không an toàn, nhưng bù lại Chuyên còn có gia đình, người thân, hy vọng sẽ được che chở. Đầu tháng 4/1961, Chuyên lên tàu Nautilus 1, rời Đà Nẵng, theo hành trình hai ngày về phía Bắc, nhưng do thời tiết xấu nên phải quay trở vể nơi xuất phát. Vài hôm sau, khi thời tiết đẹp, Chuyên mới lên đường.
Sau khi vào vùng biển Quảng Ninh, Chuyên chèo chiếc thuyền nhỏ, đổ bộ lên một địa điểm gần Cẩm Phả. Chuyên đem đồ đạc, trang bị lên bờ rồi giấu ngay hai máy truyền tin. Sau khi sum họp với gia đình, Chuyên đã cố thuyết phục người em trai là Phạm Độ làm việc cho mình. Chuyên đã nhờ người em trai quay máy truyền tin để gửi đi bức mật điện đầu tiên. Để tránh cho làn sóng bị giao thoa, Phạm Chuyên đánh tín hiệu từ bờ biển miền Bắc Việt Nam, vượt đại dương đến trạm Bugs, với mật mã do CIA đặt cho trạm viễn thông tại căn cứ quân sự ở cảng Subic, Philippin. Từ đó, bức mật điện sẽ được chuyển tiếp đến cơ quan CIA tại Sài Gòn với tên là trụ sở hãng IBM; ct N.C.). Sau này, Chuyên còn gửi thêm 22 bản báo cáo nữa trong một thời gian rất ngắn. "Nhấn ga", phát triển chiến tranh "không quy ước"
Sáng 28/1/1961, Tổng thống John F. Kenedy đã chủ trì họp Hội đồng an ninh quốc gia, thảo luận về tình hình Việt Nam. Tại đây, các đại biểu đã được nghe Lansdale, người giàu kinh nghiệm các hoạt động bí mật của Cục tình báo Trung ương (CIA) báo cáo về tình hình Nam Việt Nam với những vấn đề hết sức bi đát. Đây chính là cơ sở để đầu tháng 3/1961, John F. Kenedy yêu cầu có báo cáo về các hoạt động ngầm chống Bắc Việt Nam của CIA. Tiếp đó, Kenedy ra Chỉ thị số 28, yêu cầu CIA phải nỗ lực tiến hành hoạt động du kích ở lãnh thổ Bắc Việt Nam. Điều chú ý là, Điều 25 của chỉ thị này, cho phép cơ quan CIA sử dụng quân biệt kích "Mũ nồi xanh" (Special Forces) và Người nhái Hải quân (Navy Seals) để huấn luyện, làm cố vấn cho quân đội Việt Nam thực hiện những phi vụ bí mật.
Ngay sau đó, CIA thực hiện hàng loạt các hoạt động ngầm: Tuyên truyền; chiến tranh kinh tế; hành động phòng ngừa trực tiếp như phá hoại, chống phá hoại, huỷ hoại và sơ tán và hoạt động lật đổ chống lại các quốc gia thù địch, trong đó có việc trợ giúp cho phong trào kháng chiến ngầm, du kích và các nhóm tị nạn, và hỗ trợ các phần tử chống cộng tại chỗ.
Như vậy, CIA đã trở thành công cụ qua đó Hoa Kỳ có thể tiến hành các hoạt động chiến tranh không quy ước, chống các nước có tư tưởng, chế độ chính trị đối lập, đồng minh và là giải pháp thay thế trong tình huống chưa đến mức "xung đột vũ trang do lực lượng quân sự thông thường tiến hành".
Nguồn: Kiến Thức
Trong
buổi mình minh ngày 7/12/1941, quân Nhật đã ném bom phủ đầu lên Hạm
độiThái Bình Dương của Mỹ ở Trân Châu Cảng, Hawaii, buộc Mỹ phải tham
chiến trongChiến tranh Thế giới II. Căn cứ hải quân hoàn toàn không hay
biết gì về cuộc tấncông này, thậm chí Hoa Kỳ lúc đó đã cố gắng giải mã
ngoại giao của Nhật trongmột diễn biến dẫn tới vụ không kích và một tùy
viên quân sự tại Java đã cảnh báoWashington về việc Nhật lên kế hoạch
tấn công Hawaii, Philippines và Thái Lantrước đó 1 tuần. "Chưa bao giờ
chúng tôi có được một bức tranh tình báo đầy đủtới như vậy về kẻ thù" -
Roberta Wholstetter viết trong tác phẩm "Trân ChâuCảng: Cảnh báo và
Quyết định".
Vào
tháng 4/1961, CIA đã lên kế hoạch lật đổ chính quyền của Cuba và
địnhthay thế bằng một chính quyền khác cùng với sự giúp đỡ của những
người Cuba lưuvong. Nỗ lực này đã thất bại khi một trận không kích nhằm
vào không quân Cuba đãkhông thành, và "Lữ đoàn tấn công 2506" gồm 1400
người đã bị quân đội Cuba tấncông ngay khi đáp vào duyên hải phía nam
của đất nước. Cuộc đổ bộ vụng về này đãphá hỏng quan hệ Mỹ - Cuba.
Vào
ngày 31/1/1968, trong suốt dịp Tết Âm lịch năm Mậu Thân, lực lượng
quânđội miền Bắc Việt Nam khiến cho quân đội Mỹ choáng váng với một
chiến dịch tấncông quy mô vào miền Nam. Cuộc Tổng tấn công Tết Mậu Thân
được cho là trận đánhcó tính chất quyết định nhất của Việt Nam. Mỹ hoàn
toàn vỡ mộng với cuộc chiếntại đây, các nhà hoạch định chính sách của Mỹ
đã phải chuyển hướng và tập trungvào việc giảm dần quân Mỹ tại Việt
Nam.
Trong tháng 8/1978 - 6 tháng trước khi Shah Mohammed Reza
Pahlavi - một nhân vật được Mỹ hậu thuẫn - bỏ trốn khỏi Iran, CIA đã đưa ra mộttuyên bố ít người biết, rằng "Iran hiện giờ không ở trong tình trạng của mộtcuộc cách mạng, hay thậm chí là tiền khởi nghĩa". Còn giờ như chúng ta đều biết,Ayatollah Ruhollah Khomeini đã lên nắm quyền trong cuộc Cách mạng Hồi giáo năm1979, mở ra một mối bất hòa giữa Iran và Mỹ và kéo dài cho tới tận ngày nay.
Mỹ hoàn toàn
bất ngờ với việc Liên Xô tiến quân vào Afghanistan hồi tháng12/1979.
Mạng lưới thông tin tình báo của Mỹ đã cho rằng điều này khó có thể
xảyra vì việc này sẽ tiêu tốn rất nhiều tiền của Liên Xô, nhưng không
ngờ thực tếdiễn biến ngược lại với cách họ vẫn nghĩ.
Nguồn : VietnamNet
Vậy diễn biến của loài hình chiến tranh này là thế nào? Báo Kiến Thức xin giới thiệu tới độc giả loạt bài hồ sơ cuộc chiến tranh "không quy ước" mà CIA trực tiếp tiến hành chống phá Việt Nam: Nền tảng ban đầu
Trước khi Mỹ sử dụng quân biệt kích "Mũ nồi xanh" (Special Forces) và Người nhái Hải quân (Navy Seals) để huấn luyện, làm cố vấn cho Việt Nam cộng hòa thực hiện những phi vụ bí mật của "chiến tranh không quy ước" thì từ năm 1957 họ đã huấn luyện cho Sài Gòn lực lượng làm nhiệm vụ đặc biệt.
Năm 1957, chính quyền Eisenhower tài trợ cho quân đội Sài Gòn chương trình bí mật. Theo đó, Trung ương tình báo CIA và Bộ Quốc phòng Mỹ phối hợp để thành lập cho quân đội Sài Gòn một đơn vị biệt kích lấy tên là Liên đoàn quan sát số 1. Đơn vị này có nhiệm vụ bí mật xâm nhập vào hàng ngũ quân đối phương nắm tin, chống phá. Để giữ bí mật, Liên đoàn quan sát số 1 do Ban Nghiên cứu điều hành (thuộc ngành tình báo của Bộ Quốc phòng quản lý), về sau đổi tên là Phòng Liên lạc Phủ Tổng thống, đặt dưới sự theo dõi trực tiếp của Tổng thống Ngô Đình Diệm, do Trung tá đặc vụ Lê Quang Tung làm trưởng phòng.
Năm 1958, cơ quan CIA tại Sài Gòn thành lập Ban Ngoại vụ do Russell Miller, núp dưới bóng một nhà ngoại giao làm trưởng ban. Russell lệnh cho Trung tá Tung chọn lực lượng. Ít lâu sau, 12 sĩ quan trẻ cấp bậc từ thiếu úy đến trung úy được điều về và đặt dưới quyền chỉ huy của Đại úy Ngô Thế Linh. Tháng 11/1958, cả 12 sĩ quan trẻ đều được đưa sang Saipan để huấn luyện. Ở đó, họ được CIA huấn luyện hai tháng về nghiệp vụ tình báo, tác chiến, phương thức phá hoại và chỉ huy đường dây tình báo. Cuối 1958, Đại úy Ngô Thế Linh trở về Sài Gòn và được bổ nhiệm làm Trưởng phòng Bắc Việt (mật danh là Phòng 45), trực thuộc Phòng Liên lạc Phủ Tổng thống, quân số chỉ có hơn chục người. Trong những tháng còn lại của năm 1958, Phòng 45 chuyên lo việc huấn luyện cho nhân viên mới.
Đến giữa năm 1959, một nhóm 5 sĩ quan khác được đưa sang Saipan huấn luyện 6 tuần. Sau đó ít lâu, CIA cử nhân viên đến Sài Gòn huấn luyện hai khóa trong năm, mỗi khóa huấn luyện kéo dài 12 tuần. Lần này, chương trình huấn luyện nhắm vào những sĩ quan trẻ miền Bắc, có gốc là dân tộc thiểu số. Khóa huấn luyện kéo dài đến cuối năm 1959.
Con cưng của "chiến tranh không quy ước"
Thời gian sau, Trung úy Đỗ Văn Tiên (mật danh Francois) nhận lệnh phái một điệp viên đơn tuyến xâm nhập miền Bắc. Francois tìm được một người thích hợp là Phạm Chuyên, nguyên là một Đảng viên biến chất, quê ở tỉnh Quảng Ninh. Chuyên bị vợ bỏ nên anh ta di cư vào Nam. Thoạt đầu Phạm Chuyên từ chối, dù Trung tá Lê Quang Tung đã cho đàn em theo dõi, dụ dỗ suốt nửa năm trời. Cuối cùng, sau 6 tháng cộng tác với Edward Reagan, nhân viên của CIA, họ đã thuyết phục Chuyên.
Trong lúc Chuyên được huấn luyện các kỹ năng thì Trung úy Tiên và Reagan bận rộn phác thảo kế hoạch đưa điệp viên xâm nhập miền Bắc. Theo kế hoạch, Chuyên sẽ nằm vùng dài hạn ở tỉnh Quảng Ninh, một tỉnh ven biển Bắc Bộ, nơi Chuyên rất quen thuộc. CIA cho rằng, việc phái Chuyên xâm nhập miền Bắc bằng đường biển là rất hợp lý. Với niềm hứng khởi ấy, hai chuyên viên tình báo bay ra Đà Nẵng tìm địa điểm xuất phát. Họ thuê một biệt thự kín đáo, có tường bao quanh làm mật cứ.
Trước khi Chuyên được gửi đi, Phòng 45 quyết định triển khai kế hoạch ngắn hạn: Thả điệp viên đến khu phi quân sự, dọc theo vĩ tuyến 17 để thăm dò. Nhân vật được chọn là Vũ Công Hồng (mật danh là Hirondelle).
Hồng được huấn luyện cấp tốc và đưa ra sống tại căn nhà được bảo vệ rất nghiêm mật ở Huế. Thiếu tá Trần Khắc Kính có mật danh là Atlantic, người của Phòng Liên lạc Phủ Tổng Thống chỉ đạo mọi hoạt động xuất phát từ Huế. Sau khi thả qua sông Bến Hải, vài tuần sau, Vũ Công Hồng trở về căn cứ. Hắn cung cấp một ít thông tin về đường đi, nước bước của hệ thống an ninh Bắc Việt, đủ làm cho những nhân viên của Phòng 45 hứng khởi.
Hai tháng sau, Phạm Chuyên (mật danh Ares) được cử trở về miền Bắc thu thập tin tức tình báo, tuyển mộ thêm điệp viên, chuẩn bị tinh thần lót ổ nằm vùng dài hạn. Chuyên sẽ đóng vai một người đánh cá ở một làng nhỏ ở Cẩm Phả, ngay gần vịnh Hạ Long, quê hương của Chuyên trước năm 1958. CIA tính toán, sự trở về của Chuyên có thể không an toàn, nhưng bù lại Chuyên còn có gia đình, người thân, hy vọng sẽ được che chở. Đầu tháng 4/1961, Chuyên lên tàu Nautilus 1, rời Đà Nẵng, theo hành trình hai ngày về phía Bắc, nhưng do thời tiết xấu nên phải quay trở vể nơi xuất phát. Vài hôm sau, khi thời tiết đẹp, Chuyên mới lên đường.
Sau khi vào vùng biển Quảng Ninh, Chuyên chèo chiếc thuyền nhỏ, đổ bộ lên một địa điểm gần Cẩm Phả. Chuyên đem đồ đạc, trang bị lên bờ rồi giấu ngay hai máy truyền tin. Sau khi sum họp với gia đình, Chuyên đã cố thuyết phục người em trai là Phạm Độ làm việc cho mình. Chuyên đã nhờ người em trai quay máy truyền tin để gửi đi bức mật điện đầu tiên. Để tránh cho làn sóng bị giao thoa, Phạm Chuyên đánh tín hiệu từ bờ biển miền Bắc Việt Nam, vượt đại dương đến trạm Bugs, với mật mã do CIA đặt cho trạm viễn thông tại căn cứ quân sự ở cảng Subic, Philippin. Từ đó, bức mật điện sẽ được chuyển tiếp đến cơ quan CIA tại Sài Gòn với tên là trụ sở hãng IBM; ct N.C.). Sau này, Chuyên còn gửi thêm 22 bản báo cáo nữa trong một thời gian rất ngắn. "Nhấn ga", phát triển chiến tranh "không quy ước"
Sáng 28/1/1961, Tổng thống John F. Kenedy đã chủ trì họp Hội đồng an ninh quốc gia, thảo luận về tình hình Việt Nam. Tại đây, các đại biểu đã được nghe Lansdale, người giàu kinh nghiệm các hoạt động bí mật của Cục tình báo Trung ương (CIA) báo cáo về tình hình Nam Việt Nam với những vấn đề hết sức bi đát. Đây chính là cơ sở để đầu tháng 3/1961, John F. Kenedy yêu cầu có báo cáo về các hoạt động ngầm chống Bắc Việt Nam của CIA. Tiếp đó, Kenedy ra Chỉ thị số 28, yêu cầu CIA phải nỗ lực tiến hành hoạt động du kích ở lãnh thổ Bắc Việt Nam. Điều chú ý là, Điều 25 của chỉ thị này, cho phép cơ quan CIA sử dụng quân biệt kích "Mũ nồi xanh" (Special Forces) và Người nhái Hải quân (Navy Seals) để huấn luyện, làm cố vấn cho quân đội Việt Nam thực hiện những phi vụ bí mật.
Ngay sau đó, CIA thực hiện hàng loạt các hoạt động ngầm: Tuyên truyền; chiến tranh kinh tế; hành động phòng ngừa trực tiếp như phá hoại, chống phá hoại, huỷ hoại và sơ tán và hoạt động lật đổ chống lại các quốc gia thù địch, trong đó có việc trợ giúp cho phong trào kháng chiến ngầm, du kích và các nhóm tị nạn, và hỗ trợ các phần tử chống cộng tại chỗ.
Như vậy, CIA đã trở thành công cụ qua đó Hoa Kỳ có thể tiến hành các hoạt động chiến tranh không quy ước, chống các nước có tư tưởng, chế độ chính trị đối lập, đồng minh và là giải pháp thay thế trong tình huống chưa đến mức "xung đột vũ trang do lực lượng quân sự thông thường tiến hành".
Nguồn: Kiến Thức
Những thất bại bẽ bàng của tình báo Mỹ (I)
Thứ ba, 17/01/2012 | 21:43 GMT+7
<>Vào ấn bản
tháng 1-2/2011 của tờ Chính sách Đối ngoại, cựu quan chức CIA PaulPillar
đã đưa ra nhận định về mức độ quan trọng của thông tin tình báo - kể
cảtin tốt lẫn tin xấu - có thể ảnh hưởng tới việc đưa ra quyết định của
tổngthống, sửa đổi chính sách đối ngoại của Mỹ, ngăn chặn các bất ngờ.
Cho
dù hạn chế của cộng đồng tình báo Mỹ là gì, họ vẫn phải đối mặt với
cácchỉ trích vì những thiếu sót trong thông tin tiếp nhận, mà gần đây
nhất là việchọ không thể dự báo trước được phong trào Mùa xuân Ả Rập và
hoàn toàn không haybiết gì về thông tin lãnh đạo Triều Tiên Kim Jong-il
qua đời.
<>Dưới đây là các thất bại tệ hại nhất trong lịch sử tình báo Mỹ
<>Vụ tấn công Trân Châu Cảng
|
| Trong hình là tàu USS Arizona bị cháy trong đợt không kích của Nhật vào Trân Châu Cảng hôm 7/12/1941. |
Tuy nhiên, bức tranh đó lại
không bao giờ được xem xét một cách đầy đủ bởi sựchia sẻ không thích
đáng giữa các cơ quan của chính phủ, các nhận định chủ quancủa phía Mỹ
cho rằng Nhật sẽ không dám thực hiện một cuộc tấn công chớp nhoángnhư
vậy, và sự cạnh tranh đối địch trong chính cộng đồng tình báo của Mỹ.
CIA
được thành lập năm 1947, trực thuộc Cơ quan Hành động An ninh Quốc
giasau đó đã lưu ý rằng cuộc tấn công bất ngờ vào Trân Châu Cảng đã nhấn
mạnh vàonhu cầu phân biệt giữa "các dấu hiệu" và hiện tượng "nhiễu" và
thành lập một tổchức tình báo tập trung.
<>Cuộc đổ bộ vào Vịnh Con Lợn
|
| Trong ảnh là các lính gác giám sát các thành viên của "Lữ đoàn Tấn công 2506" sau khi bị tóm gọn tại Vịnh Con Lợn vào tháng 4/1961. |
Các
tài liệu của CIA sau đó công bố cơ quan này cho rằng Tổng thống John
F.Kennedy từng nói có thể sẽ ủy thác cho quân đội Mỹ tấn công nếu như
tất cả cácphương án khác thất bại, tổng thống cũng không bao giờ đưa ra
một nhận định nàobày tỏ nghi ngờ liệu rằng chiến dịch này có thể thành
công mà không cần tới sựhỗ trợ của quân đội Mỹ -- Kennedy tất nhiên là
không bao giờ có ý định đưa ra hỗtrợ này.
(Sử gia Piero Gleijeses đã ví
CIA và Kennedy như những con thuyền mất húttrong đêm). CIA cũng không có
bất kỳ sự trợ giúp nào trong một năm sau đó vìnghĩ rằng Liên Xô có vẻ
như không hề thiết lập bất kỳ hệ thống tên lửa tấn côngnào tại Cuba
trong một báo cáo phát hành một tháng trước Cuộc khủng hoảng tênlửa ở
Cuba, dù cho sau đó cơ quan này đã bù lấp một chút bằng tấm ảnh chụp
vộivề các khu vực tên lửa của Cuba.
<>Chiến dịch Tết Mậu Thân
|
| Trong hình là quân đội miền Bắc trên đường vào Huế trong cuộc Tổng tấn công Tết Mậu Thân 1968. |
Một cuộc điều tra ngay sau đó đã kết
luận: các quan chức quân đội Mỹ và ViệtNam Cộng hòa cùng với các nhà
phân tích thông tin tình báo đã thất bại trongviệc dự đoán về "cuộc tấn
công dữ dội, có sự phối hợp, và đúng lúc" của quân độimiền Bắc - bất
chấp nhiều dấu hiệu cảnh báo trước đó.
Người quản lý thư
viện Hải quân Glenn E. Helm lưu ý rằng các nguyên nhân nhưviệc coi
thường thu thập thông tin tình báo, các rào cản ngôn ngữ, và không
nắmđược chiến lược của đối phương đã đóng các vai trò quan trọng trong
thất bạitình báo này.
<>Cách mạng Iran
|
| Trên hình là những người biểu tình Iran đang giơ cao hình ảnh của Ayatollah Khomeini vào ngày 1/1/1979 trong cuộc tuần hành ở Tehran nhằm chống lại nhà vua. |
Pahlavi - một nhân vật được Mỹ hậu thuẫn - bỏ trốn khỏi Iran, CIA đã đưa ra mộttuyên bố ít người biết, rằng "Iran hiện giờ không ở trong tình trạng của mộtcuộc cách mạng, hay thậm chí là tiền khởi nghĩa". Còn giờ như chúng ta đều biết,Ayatollah Ruhollah Khomeini đã lên nắm quyền trong cuộc Cách mạng Hồi giáo năm1979, mở ra một mối bất hòa giữa Iran và Mỹ và kéo dài cho tới tận ngày nay.
Theo
Gary Sick - một thành viên trong Hội đồng An ninh Quốc gia của Tổngthống
Jimmy Carter, Mỹ đã thu hẹp lại thông tin tình báo thu thập được bên
trongIran trước khi khởi nghĩa nổ ra để thể hiện sự tôn kính với Vua
Iran. Điều nàykhiến cho các quan chức Mỹ coi nhẹ sự oán hận dân cao của
người dân Iran đối vớinhà vua và với Mỹ, đồng thời đánh giá không đúng
tầm thực lực của phe đối lậpkhi lật đổ nhà vua.
Bên
cạnh đó, một báo cáo của Đại học Georgetown hồi năm 2004 đã chỉ ra
rằngmạng lưới tình báo Mỹ từng cảnh báo về quyền lực ngày càng suy yếu
của nhà vuaIran và lực lược tôn giáo đối lập đang mạnh lên, và rằng đấu
tranh chính trị vàviệc chính quyền Carter dính líu vào các cuộc đàm phán
hòa bình với Ai Cập -Israel đã thổi bùng thêm sự căm ghét của Iran đối
với Mỹ.
<>Liên Xô đổ bộ vào Afghanistan
|
| Trong ảnh là các trẻ em Afghanistan vẫy cờ Afghanistan và cờ Liên Xô ở gần thủ đô Kabul vào ngày 15/5/1988 khi quân đội Nga bắt đầu rút khỏi Afghanistan. |
Cựu
quan chức tình báo CIA Douglas MacEachin nhớ lại chỉ vài ngày sau cuộc
đổbộ, có một câu đùa mỉa mai sai lầm này lan truyền khắp cơ quan tình
báo rằng:"các nhà phân tích đã hiểu đúng, chỉ có Liên Xô đã nhầm".
Trong
cuốn sách "CIA và Văn hóa Sai lầm", John Diamond thừa nhận rằng cơ
quannày đã không thể dự đoán được cuộc đổ bộ mãi cho tới sát lúc sự việc
diễn ra.
- <>Lê Thu (theo FP)
Những thất bại bẽ bàng nhất của tình báo Mỹ(II)
Thứ tư, 18/01/2012 | 08:07 GMT+7
<>Điều đặc biệt là những thất bại này đều liên quan tới các sự kiện làm thay đổi cục diện thế giới.
<>
<>Cuộc chiến trong Lễ sám hối của người Do Thái
![]() |
| Ariel Sharon hội ý với quan chức lãnh đạo quân đội Haim Bar Lev và người sau này làm Bộ trưởng Quốc phòng Israel Moshe Dayan tại Sinai vào ngày 17/10/1973 trong suốt cuộc chiến trong những ngày lễ sám hối. |
Cuộc xung đột này kết thúc
với lệnh ngừng bắn vào tháng 10/1973, đây cũng làphép thử cho quan hệ
Mỹ - Nga và đẩy cuộc xung đột Ả Rập - Israel trở thành ưutiên hàng đầu
trong chương trình nghị sự chính sách đối ngoại của Washington.
Các
tài liệu do Phòng Lưu trữ An ninh Quốc gia của Đại học George
Washingtonthu thập cho thấy cơ quan tình báo Israel tin rằng lực lượng
quân sự của đấtnước này có thể ngăn chặn các nước Ả Rập láng giềng khởi
động một cuộc chiến, vàcác quan chức tình báo Mỹ cũng cho rằng điều này
hợp lý.
Vào ngày chiến tranh bắt
đầu, một thư báo của Hội đồng An ninh Quốc gia lưu ýrằng các cố vấn của
Liên Xô đã rút khỏi Ai Cập và Israel đang lường trước đượcmột cuộc tấn
công do Ai Cập và Syria đang có những động thái quân sự, nhưng nóithêm
rằng các cơ quan tình báo Mỹ đang nói giảm nói tránh về khả năng Ả Rập
tấncông Israel" và "thiên về một cách giải thích khác về một cuộc khủng
hoảng trongquan hệ giữa Liên Xô và Ả Rập".
![]() |
| Trong hình, ông Gorbachev đọc tuyên bố từ chức tại Moscow vào ngày 25/12/1991 trước khi xuất hiện trên truyền hình để trao lại chức vụ này cho Tổng thống Nga Boris Yeltsin và giải tán Liên bang Xô Viết. |
Từ sự
việc này, đài BBC gần đây có lưu ý lại: "Ví dụ từ việc Liên Xô sụp đổđã
cho thấy vấn đề là thông tin tình báo thu thập đều theo hướng trái ngược
lại:họ có thể nhìn vào các tên lửa, ước tính sản lượng của các nhà máy
vũ khí, vânvân. Nhưng các động lực chính trị và xã hội trong một xã hội
lại khó đoán địnhhơn".
<>Ấn Độ thử hạt nhân
![]() |
| Các binh sĩ Ấn Độ bước trên bãi đất vào ngày 20/5/1998 khi họ tuần tra khu vực Shakti-1 gần New Delhi nơi thử nghiệm hạt nhân 9 ngày trước đó. |
Lúc
đó, tờ Washington Post đưa tin rằng vệ tinh do thám của Mỹ đã tìm
thấybằng chứng rõ ràng về việc Ấn Độ chuẩn bị thử hạt nhân 6 giờ trước
khi vụ thửdiễn ra, nhưng các nhà phân tích thông tin tình báo Mỹ phụ
trách việc giám sátchương trình hạt nhân của Ấn Độ lại ... vắng mặt.
Thay vào đó, sáng hôm sau, họphát hiện ra các hình ảnh này khi vụ thử
nghiệm đã diễn ra.
<>Vụ khủng bố 11/9
|
| Tòa tháp đôi bị cháy sau khi hai chiếc máy bay đâm vào ngày 11/9/2001 tại New York. |
Đáp
lại các lưu s của Ủy ban 11/9, Quốc hội Mỹ đã bổ nhiệm một giám đốc
tìnhbáo quốc gia và Trung tâm Chống khủng bố Quốc gia để thu thập thông
tin tìnhbáo.
Một cựu chuyên gia phân
tích thông tin tình báo của CIA Paul Pillar từng viếtrằng các quan chức
tình báo đã bỏ sót thông tin về vụ tấn công 11/9 nhưng khôngbỏ qua mối
đe dọa về al Qaeda. CIA đã thiết lập một đơn vị chỉ tập trung vàoOsama
bin Laden vào cuối những năm 1990 và Tổng thống Bill Clinton đã tiến
hànhcác chiến dịch bí mật chống lại al Qaeda.
Báo
cáo ngắn gọn của mạng lưới tình báo vào tháng 2/2001 về các mối đe
doạntoàn cầu đã coi mạng lưới khủng bố của bin Laden là "mối đe dọa trực
tiếp nhấtvà nghiêm trọng" đối với nước Mỹ, có khả năng "lên kế hoạch
nhiều cuộc tấn côngvới rất ít hoặc không có cảnh báo nào".
<>Cuộc chiến Iraq
|
| Ông Powell cầm trên tay một mẫu vi khuẩn khô của bệnh than mà ông cho rằng Saddam Hussein có đủ để "đổ đầy hàng triệu thìa uống trà". Và ông nói thêm "Saddam Hussein thậm chí còn không hề báo cáo về một thìa vi khuẩn gây chết người này". |
Trên thực
tế, dự đoán thông tin tình báo vào tháng 10/2002 đã kết luận rằngIraq
đang tiếp tục chương trình WMD và có thể chế tạo vũ khí hạt nhân "chỉ
trongthời gian từ vài tháng đến một năm" nếu như họ có các nguyên liệu
cần thiết.Nhưng Mỹ lại chẳng bao giờ tìm thấy các bằng chứng đó sau khi
họ đem quân vàoIraq. Tổng thống Mỹ George W. Bush đã gọi thất bại tình
báo này là "điều đángtiếc nhất" của ông.
Nhưng,
một điều chưa rõ là những sai lầm như vậy phải bị lên án như thế nàomới
đủ khi nó đối lập với các nhà hoạch định chính sách. Năm 2004, tờ
WashingtonPost đưa tin rằng Tổng thống Bush và các cố vấn cấp cao của
ông đã "phớt lờ rấtnhiều thông tin cảnh báo và hạn định" trong một báo
cáo tình báo tháng 10/2002khi họ nhất quyết phải gây sức ép lên kế hoạch
chiến tranh. Chẳng hạn, các nhàphân tích cho rằng Saddam Hussein có thể
sẽ không sử dụng WMD hay là trao các vũkhí này chho các nhóm khủng bố
trừ khi Iraq bị xâm lược.
Tờ New
York Times đưa tin các quan chức cao cấp trong chính quyền Bush
cũnghuyên hoa về các máy ly tâm hạt nhân của Iraq dù cho các chuyên gia
hạt nhânnghi ngờ về điều này.
- <>Lê Thu (theo FP)







Nhận xét
Đăng nhận xét