Dai Chung la su suy ngam cua toi ve cuoc doi, xa hoi, nhan sinh
CÂU CHUYỆN TÌNH BÁO 269
Nhận đường liên kết
Facebook
X
Pinterest
Email
Ứng dụng khác
-
(ĐC sưu tầm trên NET)
Phạm Ngọc Thảo huyền thoại tình báo Việt Nam
6 năm cung cấp bí mật hạt nhân của Mỹ cho Liên Xô mà FBI không biết: Điệp viên này là ai?
Trang Li |
Tiết lộ bí mật quốc gia của cả Anh và Mỹ cho Liên Xô, điệp viên
gốc Đức được The Times (Anh) công nhận là điệp viên thành công nhất lịch
sử hiện đại!
Cách
đây 70 năm có lẻ, thế giới chính thức bước vào kỷ nguyên vũ khí nguyên
tử sau khi Mỹ sản xuất và cho nổ thử nghiệm thành công quả bom hạt nhân
mang mật danh "Trinity" vào ngày 16/7/1945. Để có được "quân bài
chiến lược" là vũ khí mạnh nhất trong lịch sử loài người trong tay, ngay
trước khi Thế chiến 2 kết thúc, Mỹ đã phải bí mật thực hiện rất nhiều
dự án nhằm sản xuất bằng được siêu vũ khí có thể đưa Mỹ lên vị trí dẫn
đầu trong cuộc chạy đua mới mang tên Chiến tranh Lạnh sau này với Liên
Xô. Dự án Manhattan (Manhattan Project), "cái nôi" cho ra đời quả bom nguyên tử đầu tiên trong lịch sử nhân loại "Trinity", chính là nỗ lực không ngừng nghỉ của người Mỹ trong những năm Thế chiến 2 đang diễn ra ác liệt. Trước
khi Chiến tranh Thế giới thứ 2 bùng nổ, các nhà khoa học Đức đã có phát
hiện quan trọng làm thay đổi mãi mãi sức mạnh vũ khí tương lai: Nguyên
tử hóa học Uranium khi bị bắn phá mạnh có thể giải phóng một nguồn năng
lượng hủy diệt rất lớn. Phát hiện này đặt nền tảng cho ý tưởng sản xuất
một loại bom có sức công phá vô cùng lớn. Năm 1939, sau khi hay
tin tình báo các nhà khoa học Đức đang bí mật nghiên cứu nhằm chế tạo vũ
khí áp dụng công nghệ hạt nhân, nguy hiểm hơn, Adolf Hitler đặt rất
nhiều hy vọng vào loại vũ khí hủy diệt này cho những nước cờ của hắn,
thì Tổng thống Mỹ thời bấy giờ là Franklin D. Roosevelt ra sắc lệnh khởi
động "quân bài chiến lược" nhằm đáp trả lại những mối nguy hiểm tiềm
tàng từ dự án của Adolf Hitler. Đầu
tiên, Tổng thống Roosevelt thành lập Ủy ban Tư vấn về Uranium. Ủy ban
gồm các nhà khoa học và quan chức quân sự có trọng trách tìm hiểu vai
trò của Uranium trong sản xuất vũ khí hủy diệt. Dựa
trên những phát hiện của ủy ban, chính phủ Mỹ bắt đầu tài trợ cho
nghiên cứu của Enrico Fermi và Leo Szilard thuộc Đại học Columbia, nhằm
tập trung vào các phương pháp tách đồng vị phóng xạ (còn gọi là làm giàu
urani) và phản ứng dây chuyền hạt nhân. Năm
1940, Ủy ban Tư vấn về Uranium đổi tên thành Ủy ban Nghiên cứu Quốc
phòng, trước khi được đổi tên thành Văn phòng Nghiên cứu và Phát triển
Khoa học (OSRD) vào năm 1941 và bổ sung Fermi vào danh sách các thành
viên. Cũng trong năm đó, sau
cuộc tấn công của Nhật Bản tại Trân Châu Cảng, Tổng thống Roosevelt
tuyên bố, nước Mỹ sẽ bước vào Thế chiến 2 và sẽ cùng với Anh, Pháp và
Liên Xô chống lại người Đức ở châu Âu và người Nhật Bản ở khu vực Thái
Bình Dương. Công binh Lục quân
Mỹ gia nhập OSRD năm 1942 dưới sự chấp thuận của Tổng thống. Dự án
chính thức trở thành sáng kiến quân sự, với vai trò chủ chốt của các nhà
khoa học tài năng. Khi Thế
chiến 2 đang nổ ra mạnh mẽ, nhiều nhà khoa học châu Âu chạy tị nạn sang
Mỹ, trong đó có nhà bác học nổi tiếng người Đức Albert Einstein, người
về sau đã đề nghị Mỹ hỗ trợ công cuộc nghiên cứu phân tách hạt nhân của
Uranium. Cuối cùng, vào ngày
28//12/1942, Tổng thống Roosevelt thành lập Manhattan Project để kết hợp
những nỗ lực nghiên cứu khác nhau trước đó với mục tiêu vũ khí hóa năng
lượng hạt nhân. Các cơ sở
nghiên cứu và thử nghiệm vũ khí được xây dựng tại các địa điểm xa xôi ở
bang New Mexico, Tennessee và Washington, cũng như các địa điểm của
Canada. Nhà vật lý lý thuyết
người Mỹ J. Robert Oppenheimer, một trong những "cha đẻ của vũ khí
nguyên tử", là người lãnh đạo Manhattan Project. Là
nơi tập hợp của hàng trăm nhà bác học đại tài cùng số kinh phí khổng
lồ, Dự án Manhattan nhanh chóng "hái quả ngọt". Ngày 16/7/1945, tại một
địa điểm trên sa mạc xa xôi gần Alamogordo, bang New Mexico, quả bom
nguyên tử đầu tiên của nhân loại đã được phát nổ thành công - Trinity
Test - tạo ra một đám mây nấm khổng lồ cao khoảng 12.000m. Trinity Test
chính thức mở ra kỷ nguyên nguyên tử của thế giới.
"Trinity" tạo ra một đám mây nấm khổng lồ cao khoảng 12.000m. Nguồn: Rare Historical Photos
Các
nhà khoa học làm việc dưới quyền của J. Robert Oppenheimer đã phát
triển hai loại bom riêng biệt: Một quả bom lấy nhiên liệu là Uranium có
tên là "The Little Boy - Cậu Bé", quả bom thứ hai lấy nhiên liệu là
Plutonium có tên là "The Fat Man - Gã Béo". Cả "The Little
Boy" và "The Fat Man" đều là những vũ khí chiến lược mà Mỹ dùng để chấm
dứt chiến tranh nhanh chóng. Giới lãnh đạo quân đội của Dự án Manhattan
xác định, thành phố Hiroshima của Nhật Bản, là mục tiêu lý tưởng để thả
bom. Nói là làm, ngày 6/8/1945, "The Little Boy" nổ tung trên bầu
trời Hiroshima (cách mặt đất khoảng 600m), tạo nên sự tàn phá chưa từng
có trong lịch sử. Ba ngày sau, ngày 9/8/1945, Mỹ tiếp tục thả "The Fat
Man" xuống thành phố Nagasaki của Nhật, phá hủy toàn bộ nhà cửa, con
người trên một vùng rộng hơn 3 dặm vuông. Hai quả bom nguyên tử của Mỹ đã giết chết hơn 100.000 người và san bằng hai thành phố của Nhật. Kết
quả, ngày 14/8/1945, Nhật đầu hàng, trước đó khoảng 3 tháng, Đức cũng
xin hàng. Chiến tranh Thế giới thứ hai kết thúc. Kết thúc luôn "giấc
mộng" sử dụng vũ khí hạt nhân của trùm phát xít Đức Adolf Hitler. Tạm
gác những diễn biến của cuộc chiến tranh lớn trong lịch sử nhân loại
sang một bên. Trở lại với Dự án Manhattan. Trong số hàng trăm nhà khoa
học góp công cho dự án khổng lồ, có một nhà bác học mang tên Klaus Fuchs
- người sau này bị truy nã vì đã tiết lộ "bí mật quốc gia" về bom
nguyên tử cho Liên Xô.
16 năm sau khi Mỹ cho nổ qua bom đầu tiên trong lịch sử nhân loại, người Liên Xô đáp trả bằng một quả "bom vua" - bom Sa Hoàng - có sức hủy diệt mạnh nhất trong lịch sử vũ khí hạt nhân tính đến thời điểm hiện nay. Mặc
dù đi sau Mỹ nhưng thứ mà Liên Xô đạt được khiến cho chính Mỹ phải nể
sợ! Nhờ đâu mà Liên Xô nhanh chóng phát triển được loại bom có sức công
phá khủng khiếp đến vậy? Phải chăng, những bí mật trong Dự án Manhattan
đã bị rò rỉ?
-------
Trong cuốn sách "The Spy Who Changed the World"
(tạm dịch: Chuyện về điệp viên làm thay đổi thế giới, viết về điệp viên
Klaus Fuchs) của tác giả nổi tiếng người Anh Mike Rossiter, có đoạn
miêu tả công việc nghiên cứu và chế tạo bom nguyên tử của các nhà khoa
học cho Mỹ trong Dự án Manhattan là công việc "bí mật nhất thế kỷ 20". Đối
với riêng nước Mỹ, để chế tạo thành công siêu vũ khí khiến cả thế giới
bàng hoàng, tất yếu cần sự bí mật. Đó là lý do họ đặt bí danh cho dự án
(là Manhattan Project) và đặt tên cho quả bom nguyên tử đầu tiên trong
lịch sử nhân loại là "Trinity". Bí mật xây dựng. Bí mật nghiên cứu
và chế tạo. Rồi cũng bí mật thả hai quả bom xuống hai thành phố của
Nhật Bản... cuối cùng, người Mỹ cũng phải trả một cái giá không hề nhỏ:
Những "bí mật quốc gia" về chương trình vũ khí hạt nhân lọt đến tai
người Liên Xô. Và người tiết lộ không ai khác chính là Klaus Fuchs - nhà bác học gốc Đức làm việc cho chính Manhattan Project!
Chân dung Klaus Fuchs chụp năm 1940. Ảnh: Gizmodo
Ông là ai mà The Times (UK) phải công nhận rằng: "Klaus Fuchs là điệp viên thành công nhất lịch sử hiện đại!"? Klaus
Fuchs là một nhà khoa học người Anh gốc Đức. Năm 1933, ông cùng gia
đình rời bỏ quê hương (Đức), chạy tị nạn đến Anh để tránh sự tàn bạo của
Đức Quốc xã. Tại Anh, Klaus Fuchs có được tấm bằng Tiến sĩ Vật lý trong
tay sau nhiều năm chuyên tâm học tập, nghiên cứu. Nhờ tài
năng, Klaus Fuchs được chính phủ Anh mời tham dự vào chương trình phát
triển vũ khí nguyên tử mang mật danh "Tube Alloys". Khi công cuộc
nghiên cứu đang diễn ra suôn sẻ, Klaus Fuchs bắt đầu cảm thấy khó hiểu
khi cả Mỹ, Anh và Canada thường xuyên trao đổi với nhau về các dự án
phát triển vũ khí hạt nhân mà lờ đi một đồng minh khác là Liên Xô. Từng
là thành viên của Đảng Cộng sản Đức, Klaus Fuchs cho rằng bản thân mình
cần giúp đỡ đồng minh Liên Xô. Ông đến đại sứ quán Liên Xô tại Anh
và gặp được đúng người. Đúng lúc Klaus Fuchs được nhập quốc tịch Anh là
lúc ông bắt đầu sự nghiệp tình báo của mình. Sau khi dự án "Tube
Alloys" bắt đầu, Klaus Fuchs bí mật gửi các tài liệu nghiên cứu nguyên
tử của Anh cho điệp viên Liên Xô. Cuối năm 1943, Klaus Fuchs nằm
trong danh sách những nhà bác học tài năng người Anh sang Mỹ phục vụ cho
Dự án Manhattan. Dự án được chính phủ Mỹ đầu tư hàng tỷ đô này nhanh
chóng thành công với sự ra đời lần lượt của "Trinity", đến "The Little
Boy" và "The Fat Man". Nhờ đó, những tài liệu bí mật mà Klaus
Fuchs truyền cho phía Liên Xô có ý nghĩa hơn bao giờ hết. Liên Xô tất
yếu nắm được nguyên liệu cơ bản để chế tạo bom nguyên tử. Sau
sự kiện Mỹ thả hai quả bom nguyên tử xuống Nhật Bản, nhận thấy thứ vũ
khí này mang đến sự hủy diệt khủng khiếp, Klaus Fuchs tin mình đã hành
động đúng khi tiết lộ bí mật cho Liên Xô. Sau khi Chiến tranh Thế
giới thứ 2 kết thúc, Klaus Fuchs trở về Anh, tiếp tục công việc của
mình trong dự án phát triển bom nguyên tử của nước này. Vào năm
1949, cả Cục tình báo Anh (MI5) và Cục điều tra Liên bang Mỹ (FBI) đều
nghi ngờ Klaus Fuchs. Cuối cùng, FBI xác định, Klaus Fuchs là gián điệp
cho Liên Xô. Ngày 3/2/1950, Scotland Yard bắt giữ Klaus Fuchs và
buộc tội tiết lộ bí mật quốc gia. Sau khi bị bắt giữ, Klaus Fuchs nhanh
chóng nhận tội và kể lại toàn bộ quá trình làm gián điệp của mình cho
Liên Xô. Phiên tòa xét xử Klaus Fuchs diễn ra trong 90 phút. Cuối cùng,
ông nhận bản án 14 năm tù giam và bị tước quốc tịch Anh. Vài tháng
sau khi Klaus Fuchs bị bắt, Liên Xô lên tiếng phủ nhận toàn bộ sự việc
và cho rằng câu chuyện mà Klaus Fuchs đưa ra là hoàn toàn bịa đặt! Sau 9 năm thụ án, nhờ cải tạo tốt, Klaus Fuchs được thả tự do. Ông nhanh chóng đến Đông Đức, nhập quốc tịch, sống cùng cha mình đến hết đời. Klaus Fuchs mất năm 1988.
Nguồn: The Guardian,History,Gizmodo, The Times (UK)
Tình báo Mỹ sốc về số lượng vũ khí dày đặc Nga thiết lập ở Crimea
Thứ Năm, ngày 13/06/2019 19:45 PM (GMT+7)
Nga đã thiết lập ở bán đảo Crimea một
mạng lưới phòng thủ quy mô chưa từng có, với số lượng máy bay và tên lửa
dày đặc, khiến cho giấc mơ đòi lại Crimea của Ukranie càng trở nên xa
vời.
Nga đưa hàng loạt vũ khí hiện đại đến trực chiến ở bán đảo Crimea.
Theo báo Ukraine Unian, giới chức tình báo Mỹ đã rất “sốc” khi đánh giá năng lực phòng thủ của Nga trên bán đảo Crimea. Đây là vùng đất Nga đã sáp nhập vào lãnh thổ từ năm 2014, bất chấp sự phản đối của Ukraine.
Tình báo Mỹ đánh giá các diễn biến mới cho thấy Moscow không có kế
hoạch trả lại Crimea cho Ukraine, theo Unian. Đây là một trong những yêu
cầu của Mỹ nếu Nga muốn khôi phục quan hệ và được dỡ bỏ cấm vận.
"Nga đang thể hiện khả năng kiểm soát tuyệt đối ở Biển Đen và qua đó
giúp họ có thể khuếch trương sức mạnh ra bên ngoài khu vực", Sarah
Bidgood, Giám đốc Chương trình Không phổ biến Vũ khí Á - Âu thuộc Trung
tâm Nghiên cứu James Martin về vấn đề không phổ biến vũ khí của Đại học
Middlebury, nói
Các bức ảnh chụp trong giai đoạn tháng 1.2018 đến tháng 4.2019 do một
công ty sở hữu vệ tinh, cho thấy vị trí 5 tổ hợp phòng không S-400, 5
tổ hợp S-300 và căn cứ cho các chiến đấu cơ ở 4 địa điểm khác nhau trên
bán đảo Crimea.
Phương Tây đã bày tỏ lo ngại Nga đang bố trí thế trận quân sự của
mình nhằm khóa chặt tuyến đường biển tới Địa Trung Hải, một tuyến tiếp
viện chủ chốt cho các chiến dịch ở Syria.
Từ năm 2014, Nga đã bổ sung thêm một tiểu đoàn không quân tăng cường
cho lữ đoàn bộ binh hải quân làm nhiệm vụ bảo vệ Crimea, đồng thời tăng
gấp đôi lực lượng đóng quân lên khoảng 30.000 người. Một quan chức tình
báo Mỹ tiết lộ, Moscow có kế hoạch bổ sung thêm 13.000 quân nữa đến
Crimea trong vòng 4 năm tới.
Quân đội Nga hiện có 81 chiến đấu cơ và trực thăng hiện diện thường
trực ở Crimea. Theo ông Bidgood, phạm vi chiến đấu của các lực lượng này
đã vượt ra cả Biển Đen, thậm chí còn vươn tới Trung Đông.
Hạm đội Biển Đen của Nga ở Crimea hiện có 10 tàu chiến có thể phóng
tên lửa hành trình Kalibr, bao gồm 6 tàu ngầm diesel-điện lớp Kilo và 4
tàu nổi.
Phiên bản Kalibr trang bị cho hải quân Nga có tầm bắn 2.400km và có thể nâng cấp lên phiên bản bắn xa 4.500km.
Quan chức tình báo Mỹ đánh giá tên lửa Kalibr giúp hạm đội Nga “tấn
công những mục tiêu ngoài Biển Đen, bao gồm cả phía nam châu Âu và
Syria, ngay cả khi vẫn neo tại cảng Sevastopol ở Crimea”.
Trước đó, đại diện Ukraine ở NATO, Alexander Vinnikov nói hoạt động
quân sự gia tăng của Nga trong khu vực bao gồm Crimea, Biển Đen và Biển
Azov tạo ra mối đe dọa rõ rệt với Ukraine.
Một loại vũ khí bí mật của Nga, có hình dạng giống như tên lửa, mới được nhìn thấy ngoài khơi bán đảo Crimea.
Theo Đăng Nguyễn - UNIAN (Dân Việt)
Heinz Felfe – Người “xỏ mũi” Cơ quan Tình báo Tây Đức
Hồng Sơn |
Tên tuổi Heinz Felfe xứng đáng được xếp trong hàng ngũ của những
điệp viên xuất sắc nhất thế giới. Là người hoạt động tình báo từ rất
lâu và hiệu quả cho Liên Xô, Felfe được đánh giá là nhân vật trong suốt
10 năm đã thâm nhập sâu vào bộ máy và gần như vô hiệu hóa hoạt động của
Cơ quan tình báo Tây Đức (BND) …
Heinz Felfe sinh ra tại Dresden trong gia đình một nhân viên
cảnh sát Đức. Thời niên thiếu của ông gắn liền với năm tháng bất ổn sau
sự sụp đổ của chính quyền Cộng hòa Weimar, cuộc khủng hoảng kinh tế toàn
cầu năm 1929 và sự lên ngôi của nhà nước phát xít do Hitler đứng đầu. Cũng
như phần lớn những thanh thiếu niên Đức vào thời bấy giờ, Felfe đều tin
rằng chế độ phát xít sẽ giúp khôi phục sự hùng mạnh của nước Đức và đem
lại sự phồn vinh cho người dân, cho đến khi sự thật diễn ra. Ngày
1-9-1939, Đức phát xít khơi mào Đại chiến thế giới thứ hai bằng việc
tấn công Ba Lan. Felfe nhanh chóng được gọi nhập ngũ. Nhưng chỉ hai tuần
từ khi bắt đầu chiến sự, Felfe đã phải nhập viện do bị viêm phổi.
Heinz Felfe.
Tình
trạng sức khỏe sau đó đã không cho phép Felfe quay trở lại quân ngũ.
Sau khi tranh thủ hoàn thiện chương trình học phổ thông, Felfe đã vượt
qua kỳ thi tuyển chọn để gia nhập lực lượng cảnh sát bảo vệ thuộc Tổng
cục an ninh đế chế (RSHA), tiếp tục được cử đi học luật tại Trường đại
học tổng hợp Berlin. Ngoài chuyên môn chính, Felfe còn tham
gia vào khóa đào tạo thanh tra cảnh sát hình sự. Tốt nghiệp đại học, ban
đầu ông được điều về cơ quan cảnh sát hình sự tại thành phố quê hương
Dresden, sau đó là thị trấn biên giới Gliwice. Tháng 8-1943, Felfe được điều chuyển về Cục VI của RSHA, một cơ quan chuyên trách về tình báo
đối ngoại. Một thời gian sau, ông trở thành chỉ huy ban phụ trách về
Thụy Sĩ. Giai đoạn cuối chiến tranh, Felfe được cử tới Hà Lan với nhiệm
vụ điều hành việc tung các nhóm biệt kích phá hoại vào khu vực hậu
phương quân Anh-Mỹ. Tuy nhiên, ông đã ngay lập tức bị người Anh bắt làm tù binh khi vừa chân ướt chân ráo tới đây. Chiến
tranh kết thúc, Felfe tiếp tục học tập tại Trường đại học tổng hợp
Bonn. Ông bắt đầu đi lại khắp nơi tại Đức với tư cách phóng viên tự do
của Đài phát thanh Berlin, trong đó tới cả những khu vực do Liên Xô kiểm
soát. Cho đến lúc này, thế giới quan của Felfe bắt đầu có những thay
đổi căn bản. Sự sùng bái đối với quốc trưởng Hitler từ thời trẻ đã thay
thế bằng nỗi thất vọng hoàn toàn. Ông cũng rất phẫn nộ trước những
đợt ném bom vô tội vạ của không quân Mỹ xuống các thành phố của Đức,
đặc biệt là quê hương Dresden. Sau khi nghiên cứu kỹ chính sách đối
ngoại của Liên Xô đối với nước Đức, Felfe đi đến kết luận, hành động của
Liên Xô chỉ nhằm phá bỏ tận gốc rễ chủ nghĩa quốc xã, xây dựng một nước
Đức hòa bình, thống nhất. Trong khi chính sách của Mỹ và đồng
minh lại tập trung vào dự định chia cắt nước Đức thành nhiều quốc gia
nhỏ, âm mưu khởi xướng một cuộc chiến tranh mới chống lại phe XHCN. Một
trong những chiến hữu cũ của Felfe trong cơ quan an ninh tại Dresden là
Hans Clemens đã được tình báo Xôviết tuyển mộ và được giao nhiệm vụ
thuyết phục ông hợp tác với Moscow. Sau một cuộc nói chuyện cởi mở giữa
hai người bạn vào đầu năm 1951, Felfe đồng ý bí mật hợp tác với tình báo
Xôviết. Người phơi bày “gan ruột” của BND Để có thể
tiếp cận với nguồn thông tin mật, “Gerhard” (mật danh đầu tiên của
Felfe) được đề xuất cần phải tìm cách vào làm việc trong “Gehlen
Organization”, cơ quan tình báo đầu tiên được thành lập tại Tây Đức từ
năm 1946 dưới sự kiểm soát nghiêm ngặt của Mỹ.
Vitali Korotkov từng đảm nhiệm vai trò liên lạc viên của Felfe.
Mục
tiêu hàng đầu của tổ chức này chính là hoạt động chống lại lực lượng
Hồng quân đang đóng tại Đức và Áo, cũng như hoạt động phá hoại chống lại
nhà nước CHDC Đức. Felfe đã xuất sắc hoàn thành nhiệm vụ đầu
tiên này – đến mùa thu năm 1951, ông đã có mặt trong cơ quan đại diện
của “Gehlen Organization” tại Karlsruhe, khi đó đang hoạt động dưới vỏ
bọc một công ty thương mại dưới sự chỉ huy của cựu sĩ quan tình báo phát
xít Bencinger. Công việc ban đầu của ông là nghiên cứu hồ sơ
lưu trữ để tìm kiếm các ứng cử viên có thể cho công tác tuyển mộ. Theo
như Felfe báo cáo về, “Gehlen Organization” trong giai đoạn 1951-1952 đã
rất tích cực xây dựng mạng lưới gián điệp tại những lĩnh vực kinh tế và
chính trị chủ chốt của cả Đông và Tây Đức. Từ thời điểm đó, trong
mỗi lần gặp mặt với điệp viên Xôviết, cả Felfe và Clemens (lúc này cũng
đã vào làm việc tại Gehlen Organization) đều mang theo rất nhiều cuộn
phim và băng ghi âm các tài liệu quan trọng. Một năm sau với sự
cho phép của Moscow, Felfe còn sử dụng một đồng nghiệp nữa của mình là
Erwin Tiebel để làm liên lạc viên. Dần dần, ông đã gây dựng và điều hành
cả một mạng lưới điệp viên quan trọng. Ngay từ những ngày đầu
tiên hợp tác, những thông tin mà tình báo Xôviết nhận được từ Felfe đều
được đánh giá là chính xác và kịp thời. Cũng nhờ có ông, Liên Xô đã kịp
thời phản ứng để dập tắt cuộc bạo loạn do phương Tây âm mưu tổ chức tại
Berlin vào năm 1953. Chẳng
bao lâu, Moscow giao cho Felfe nhiệm vụ tiếp theo – đó là phải xâm nhập
vào được trụ sở chính của Gehlen Organization tại thị trấn nhỏ Pullach
gần Munich. Từ tháng 7-1955, Thủ tướng Adenauer đã đưa ra quyết
định phải cải tổ lại Gehlen Organization, cụ thể là phải xây dựng một cơ
quan tình báo độc lập không còn bị phụ thuộc vào Cục Tình báo trung
ương Mỹ (CIA). Theo đó, từ ngày 1-4-1956, Cơ quan tình báo Tây Đức
(BND) chính thức ra đời và đi vào hoạt động. Chủ tịch BND sẽ hoạt động
trực tiếp dưới sự điều hành của Thủ tướng. Felfe may mắn được nhận hàm
cố vấn cao cấp của chính phủ, đồng thời được bổ nhiệm làm chỉ huy bộ
phận phản gián chống lại Liên Xô và các cơ quan đại diện của Xôviết trên
lãnh thổ Tây Đức. Về thực chất, Felfe chính là lãnh đạo ban
Xôviết của BND. Qua tay ông là hàng loạt những tài liệu quan trọng nhất
được tình báo Tây Đức chuẩn bị trước khi báo cáo Adenauer; trong đó có
liên quan đến những vấn đề như tái trang bị cho quân đội, chính sách đối
ngoại của Tây Đức với tư cách là thành viên trong khối NATO. Nhờ có Felfe, cơ quan an ninh Xôviết đã giáng nhiều đòn chí tử vào các âm mưu của mật vụ Mỹ và Tây Đức. Điển
hình như việc CIA và BND đã phối hợp tổ chức một chiến dịch khá tốn kém
nhằm cài cắm các thiết bị nghe trộm tại tòa nhà mới của Cơ quan đại
diện thương mại Xô viết ở Cologne. Nhờ sự cảnh báo của Felfe, các chuyên
gia kỹ thuật từ Moscow đã vô hiệu hóa hoàn toàn các thiết bị trên.
Trụ sở của BND tại Pullach.
Từ mùa hè năm 1956, đảm nhiệm cương vị liên lạc với Felfe là nhân viên tình báo trẻ Vitali Korotkov. “Qua
tay của Felfe là những báo cáo tổng hợp hàng tuần để trình lên Thủ
tướng Adenauer. Nhưng tất cả chúng đều báo cáo sớm cho điện Kremli,
trước khi có mặt trên bàn của Thủ tướng Tây Đức – Korotkov, sau này đại
tá tình báo về hưu nhớ lại - Thông tin của Felfe đã giúp giới lãnh đạo
Xôviết chuẩn bị kỹ càng và nắm thế chủ động trong các vấn đề và đề xuất
cần bàn bạc trước chuyến viếng thăm chính thức của Adenauer tới Moscow
vào năm 1955”. Sau năm 1955, BND đã đẩy mạnh việc phối hợp không
chỉ với CIA, mà còn với nhiều cơ quan mật vụ của các nước NATO trong
việc chống phá hoạt động của các cơ quan đại diện Liên Xô. Nhờ đó, Felfe
đã nắm bắt từ trước rất nhiều chiến dịch của mật vụ phương Tây trên mặt
trận này để báo cáo kịp thời. Tuy nhiên, Felfe cũng đặt ra một
điều kiện tiên quyết cho việc hợp tác của mình với KGB: đó là không được
bắt giữ bất cứ một điệp viên BND hay đối tượng nào có liên quan trực
tiếp đến thông tin do ông cung cấp để có thể đảm bảo an toàn. Yêu
cầu trên đã được Moscow tuân thủ nghiêm ngặt. Chính vì tầm quan trọng
từ các thông tin của Felfe, toàn bộ mọi hoạt động liên quan đến ông đều
được áp dụng những nguyên tắc bí mật cao nhất. Bị lộ Cho
dù cả hai bên đều hết sức cẩn trọng, nhưng Felfe cuối cùng vẫn bị phát
hiện và bắt giữ. Nguyên nhân là BND không thể không phân tích có hệ
thống tất cả những chiến dịch thất bại của mình để khoanh vùng và lần ra
những đối tượng nghi vấn có thể tiếp xúc nguồn thông tin trên. Tháng
10-1961, Felfe xin nghỉ phép, về ngôi nhà nhỏ của mình ở vùng ngoại ô
sát với nước Áo. Nhưng chỉ vài ngày sau, ông nhận được chỉ thị phải quay
trở lại Pullach, báo cáo tướng Langkau về một chiến dịch của BND. Ngay
sau khi báo cáo xong, các nhân viên mật vụ đã xuất hiện tại văn phòng,
tuyên bố bắt giữ Felfe. Cùng lúc đó, các thành viên khác trong nhóm của
ông cũng bị bắt giữ. Vụ bắt giữ những nguồn tin giá trị của Moscow
từng làm việc lâu năm tại BND đã gây ra một cơn chấn động thực sự tại
Tây Đức. Trong quá trình khám xét nhà ở và văn phòng của Felfe, các nhân
viên phản gián đã phát hiện hàng chục cuộn phim chụp tài liệu mật, một
chiếc cặp tài liệu hai đáy cùng thiết bị chuyên dụng để chụp ảnh.
Cuốn hồi ký của Heinz Felfe.
Một
bài báo trên tạp chí Stern đánh giá: “Nhờ có Felfe, Liên Xô đã biết tất
cả những gì đang diễn ra tại BND. Với hai chiếc máy ảnh Minox, ông ta
đã chụp lại tất cả những tài liệu qua tay mình: các báo cáo tuyệt mật
của BND, những thông báo của cơ quan tình báo quân đội, biên bản các
cuộc họp kín cùng nhiều dữ liệu bí mật khác v.v… Tính ra, Felfe
đã trao cho Liên Xô hơn 15 ngàn bản sao tài liệu mật. Trung tâm tình báo
tại Pullach đã hoàn toàn bị vô hiệu hóa”. Trong suốt quá
trình điều tra và xét xử, Felfe luôn duy trì được sự bình tĩnh và kiên
định của mình, dù đồng nghiệp Hans Clemens đã khai báo khá nhiều, làm cơ
sở để kết tội ông. Kết quả là Felfe phải nhận bản án ở mức cao nhất là
14 năm tù, còn Clemens là 8 năm. Tình
báo Xôviết trong một thời gian dài đã tìm mọi cách hỗ trợ Felfe cả về
vật chất lẫn tinh thần, cũng như áp dụng mọi biện pháp có thể để trả tự
do cho ông. Ngày 17-2-1969, một mình Heinz Felfe được trao đổi với
21 điệp viên phương Tây tại điểm kiểm soát Herleshausen nằm trên biên
giới giữa hai nước Đức. Felfe tới định cư tại Berlin, trở thành công dân
của CHDC Đức. Ông tham gia giảng dạy về hình pháp học tại Trường đại
học Humboldt và bảo vệ thành công luận án tiến sĩ tại đây. Vì
những đóng góp xuất sắc của mình, Felfe đã được Đoàn chủ tịch Xôviết tối
cao Liên Xô trao tặng huân chương Cờ đỏ và Sao đỏ, KGB trao tặng huy
hiệu “Nhân viên danh dự của Cơ quan an ninh quốc gia”. Ông cũng
bắt tay vào viết cuốn hồi ký về cuộc đời hoạt động tình báo của mình,
trong đó có đoạn viết: “Những năm tháng khó khăn trong hoạt động tình
báo phục vụ Liên Xô cũng là những năm tháng tuyệt vời nhất trong đời
tôi”. Sau khi nước Đức thống nhất, đại diện các cơ quan mật vụ của
Mỹ và CHLB Đức đã không ít lần tìm đến Felfe, đề nghị ông viết hồi ký
theo ý định có lợi cho họ, kèm theo những khoản nhuận bút hậu hĩnh.
Nhưng Felfe với sự kiên định về quan điểm của mình đã kiên quyết bác bỏ
tất cả. Điệp viên huyền thoại của tình báo Xôviết qua đời ngày 8-5-2008
tại Berlin.
theo Công an Nhân dân
“Điệp viên tỷ đô” của CIA 7 năm qua mặt KGB
Gây tiếng vang với thành tích tuyển mộ
được nhiều điệp viên, thu thập được nhiều thông tin tình báo vô cùng
quan trọng, nhưng cơ quan tình báo Liên Xô KGB trong lịch sử hoạt động
của mình cũng phải nếm trải không ít thất bại. Trong đó, thất bại nặng
nề nhất có thể nói là vụ để “điệp viên tỉ đô” của cơ quan tình báo đối
thủ của Mỹ CIA “qua mặt” suốt bảy năm.
Adolf Tolkachev.
Năm lần tiếp cận Tháng 1/1977, khi đang chờ đổ xăng tại một cây xăng dành cho các nhà
ngoại giao ở Moscow, người đứng đầu CIA tại Liên Xô (trong vỏ bọc một
nhà ngoại giao) ngạc nhiên khi thấy một người đàn ông trung niên người
Nga tiến lại gần và hỏi ông có phải là người Mỹ không bằng tiếng Anh. Sau khi nhà ngoại giao Mỹ xác nhận, người đàn ông liền bỏ vào ghế xe
một mảnh giấy rồi rời đi. Trong mảnh giấy, người đàn ông cho biết là một
kỹ sư người Liên Xô, muốn gặp một quan chức Mỹ để trao đổi thông tin. CIA không tỏ ra hào hứng với lời đề nghị bất ngờ nói trên vì nó được
đưa ra trong lúc KGB được cho là đã thành lập lực lượng “mồi nhử” chuyên
tìm cách khiến các điệp viên của CIA đang hoạt động tại Liên Xô lộ diện
rồi trục xuất về nước. Thêm vào đó, tại thời điểm diễn ra cuộc gặp, Ngoại trưởng Mỹ Cyrus
Vance cũng đang có kế hoạch tới thăm Liên Xô để đặt nền tảng cho quan hệ
song phương. Do đó, phía Mỹ không muốn có bất cứ hành động mạo hiểm nào
có thể cản trở kế hoạch của chính quyền mới. CIA đã quyết định không
hồi đáp thông tin nhận được. Bẵng đi gần một tháng, người đàn ông lạ mặt lại tiếp cận người đứng
đầu CIA ở Moscow khi ông này đang đậu xe gần tòa Đại sứ Mỹ. Người đàn
ông tiếp tục để lại một mẩu giấy rồi bỏ đi, trong đó nhắc lại đề nghị.
Dựa trên quyết định được đưa ra trước đó, CIA tiếp tục lặng im. Hai tuần
sau, lại thêm một mẩu giấy nữa được gửi đi. Lần này, để giải tỏa lo ngại của CIA, người viết thư nói hiểu được
những lo ngại của cơ quan tình báo Mỹ, đồng thời tiết lộ bản thân đang
làm việc tại một đơn vị bí mật của Liên Xô. Người viết thư cũng lặp lại
yêu cầu được tiếp xúc cũng như đưa ra cách thức liên lạc hai bên. Ấn
tượng trước sự kiên trì của người đàn ông người Nga, người đứng đầu CIA
tại Moscow đã xin ý kiến cấp trên được thăm dò người này. Tuy nhiên, trụ
sở chính của CIA tại Mỹ không đồng ý. Bẵng đi tới gần ba tháng, khi phía Mỹ tưởng chừng như mọi việc đã
khép lại thì tháng 5/1977, người đàn ông tiếp tục tiếp cận người đứng
đầu CIA tại Moscow nhưng vẫn không được hồi đáp. Đó là lần thứ tư đề
nghị của ông ta bị phớt lờ. Sau lần này, phải hơn sáu tháng sau, người
đàn ông người Nga mới lại tiếp cận trở lại với phía Mỹ. Để tạo lòng tin, ông ta gửi kèm theo một tài liệu dài hai trang,
trong đó có các thông tin liên quan đến hệ thống điện tử của một máy bay
Liên Xô. Thời điểm tập tài liệu được gửi đi vào lúc CIA tại Liên Xô đã
có một người đứng đầu mới. Sau khi xem xét, nhận thấy giá trị của thông
tin do người đàn ông cung cấp, lãnh đạo CIA tại Liên Xô quyết định gửi
điện về trụ sở, đề nghị được tìm hiểu về điệp viên tình nguyện người
Nga. Lần này, giới chức tình báo Mỹ đồng ý. Tháng 3/1978, người đàn ông người Nga cung cấp thêm 11 trang tài liệu
viết tay, trong đó có thông tin về các nỗ lực nghiên cứu và chế tạo máy
bay quân sự của Nga. Lần này, ông ta thông báo sẽ bỏ cuộc nếu không
nhận được hồi âm từ phía Mỹ. Nhận được tuyên bố này, sau nhiều do dự,
CIA đã quyết định chính thức đồng ý cử người gặp người đàn ông người
Nga. Điệp viên tỉ đô Người đàn ông người Nga trên là Adolf Tolkachev, một kỹ sư chuyên về
radar trên không tại Viện nghiên cứu khoa học kỹ thuật điện (Phazotron)
của Liên Xô. Việc tuyển mộ được người này được đánh giá là sự kiện có
tính chất bước ngoặt trong triển khai các hoạt động tình báo của Mỹ ở
Liên Xô. Bởi trong những năm đầu thời kỳ Chiến tranh Lạnh, CIA dù đã
tuyển được một số nguồn tin nhưng chưa bao giờ có thể thực sự thiết lập
được mạng lưới gián điệp ngay trong lòng nước Nga. KGB lúc bấy giờ thắt chặt việc theo dõi, khiến các công dân hay quan
chức Liên Xô không dám hoạt động gián điệp. Về phía Mỹ, việc phân tích
các nguồn tin để quyết định thu nhận ai hay bỏ qua cũng rất chật vật như
đã nói ở trên, khiến họ có thể đã để vuột mất nhiều nguồn tin quan
trọng. Với sự xuất hiện của Tolkachev, mọi việc đã thay đổi hoàn toàn.
Tolkachev là điệp viên thành công và có giá trị bậc nhất mà Mỹ có được
tại Liên Xô trong suốt hai thập kỷ. Trong hơn bảy năm làm việc cho CIA,
ông ta đã 21 lần đánh lạc hướng những tai mắt của KGB của Liên Xô để
chuyển tài liệu cho các nhân viên CIA ngay trên đường phố ở thủ đô nước
Nga. Những tài liệu và bản vẽ của ông ta đã mở ra những bí mật về hệ
thống radar cũng như các nghiên cứu về vũ khí trong tương lai của Liên
Xô. Đặc biệt, hoạt động gián điệp của người này còn giúp nước Mỹ tìm ra
rõ những điểm yếu của hệ thống phòng thủ trên không của Liên Xô để từ đó
nghiên cứu được những tên lửa và máy bay ném bom có thể bay dưới tầm
các radar của Liên Xô. Theo một số báo cáo, không quân Mỹ ước tính hoạt động gián điệp của
Tolkachev đã giúp Washington tiết kiệm được 2 tỉ USD cho các hoạt động
nghiên cứu phát triển vũ khí. Điệp viên này vì thế đã được đặt cho biệt
danh “điệp viên tỉ USD”. Ngoài ra, Tolkachev cũng trở thành một nhân vật
“truyền thuyết”, một điển hình để nghiên cứu về hoạt động gián điệp khi
có thể gặp được CIA ngay trước mũi KGB. Với công lao như vậy, Tolkachev đã được Mỹ tưởng thưởng khá hậu hĩnh.
Tuy nhiên, có một sự thật ít người biết là động cơ của Tolkachev khi
phản bội đất nước không phải vì tiền. Trên thực tế, ông hợp tác với CIA
để gây tổn hại cho Liên Xô nhằm trả thù việc mẹ vợ ông ta đã bị xử tử,
còn bố vợ ông ta thì bị đưa tới trại lao động vì tội không tố giác vợ
hồi những năm 1930. Vì thế số tiền mà Mỹ đưa cho dù đều nhận nhưng Tolkachev không hề đếm
xỉa mà xem đó là biểu hiện của việc người Mỹ tôn trọng những việc mà
ông ta đã làm. Cũng vì không cần tiền nên Tolkachev đôi khi chỉ yêu cầu
phía Mỹ “trả công” cho ông ta bằng những các album nhạc của Beatles, Led
Zeppelin… mà con trai của ông ta thích. Cái kết Từ giữa năm 1982, CIA đột ngột mất liên lạc với nguồn tin quý giá.
Trong suốt năm cuộc gặp đã được lên kế hoạch, người của Mỹ cứ đến điểm
hẹn rồi lại phải về tay không vì Tolkachev không xuất hiện. Cùng lúc,
CIA cũng nhận thấy lực lượng do thám của KGB bỗng nhiên trở nên dày đặc
trên đường phố, cho thấy rất có thể đã có chuyện xảy ra. Buổi tối ngày 7/12/1982, ngày diễn ra cuộc hẹn tiếp theo theo thỏa
thuận, phía Mỹ giao sỹ quan Bill Plunkert gặp gỡ nguồn tin. Vào khoảng
giờ cơm tối, Plunkert và vợ cùng vợ chồng người đứng đầu tình báo Mỹ tại
Liên Xô tới Đại sứ quán Mỹ ở Liên Xô dưới vỏ bọc dự tiệc sinh nhật một
nhân viên của tòa đại sứ. Hai bà vợ đều mặc đồ đen và mang theo một
chiếc bánh sinh nhật lớn, thực chất là một thiết bị tạo hình nộm. Biết rõ nguồn tin của KGB đang theo sát mình, chiếc xe vòng vèo qua
nhiều đoạn đường rồi đến một góc phố khuất, với sự hỗ trợ của thiết bị
tạo hình nộm và những người đi cùng, Plunkert đã nhảy xuống xe và biến
mất. Trong khi đó, trên xe, chiếc bánh sinh nhật được dỡ ra, tạo hình ảnh
giống đầu và thân viên sỹ quan vừa nhảy ra, khiến phía Nga không nghi
ngờ gì. Cắt đuôi tình báo Liên Xô thành công, Plunkert đến điểm hẹn,
đứng chờ khá lâu nhưng Tolkachev vẫn không xuất hiện. Mãi đến tháng 10/1983, Tolkachev mới gặp lại nhân viên của CIA. Lần
này, ông ta đã chuyển cho phía Liên Xô 16 trang tài liệu cùng một mảnh
giấy ghi ra những yêu cầu mới của ông ta cũng như các lưu ý về những
cuộc gặp trong tương lai. Trong giấy, Tolkachev cũng cho biết cơ quan của ông ta đã tiến hành
điều tra về việc rò rỉ thông tin và ông ta có thể sẽ bị bắt bất cứ lúc
nào nên ông ta đã hủy toàn bộ các tài liệu cũng như vật dụng có liên
quan đến việc trao đổi thông tin với CIA. Trong mẩu tin nhắn, Tolkachev vẫn khẳng định sẽ tiếp tục hợp tác với
CIA nhưng kể từ lần gặp cuối cùng đó, ông ta đã không xuất hiện thêm bất
cứ một lần nào nữa. Các tài liệu về sau được công bố cho thấy hoạt động
gián điệp của Tolkachev bị phát giác vào khoảng cuối năm 1984, đầu năm
1985 do bị một nhân viên của CIA phản bội tố cáo với KGB. Tolkachev bị
bắt giữ năm 1985 và bị tử hình vào tháng 10/1986 vì tội phản quốc.
Theo Hoàng Nam (Pháp luật Việt Nam)
Richard Sorge - điệp viên Liên Xô 'cực phẩm' làm phụ nữ khó cưỡng
Richard Sorge được xem là
“gián điệp đáng gờm nhất trong lịch sử” với khả năng quyến rũ có thể lừa
phỉnh cả đàn ông và khiến phụ nữ không thể cưỡng lại.
Richard Sorge là điệp viên Liên Xô đã đánh cắp một trong những bí
mật lớn nhất của chiến tranh thế giới thứ hai: các chi tiết chính xác
về cuộc xâm lược Liên Xô của Hitler vào tháng 6/1941. Thông qua hoạt động gián điệp xuất sắc liên quan đến việc thâm nhập vào các cấp độ quân sự và chính trị cao nhất ở Đức và Nhật Bản, Sorge đã cung cấp cho Moscow kế hoạch chiến đấu của Chiến dịch Barbarossa vài tuần trước khi nó xảy ra. Lịch sử đầy những "nếu như". Sorge và các thu thập tình báo của ông
có thể đã đổi hướng chiến tranh. Tuy nhiên, Stalin không tin Hitler có
kế hoạch xâm chiếm mặc dù ông đã nhận được những cảnh báo tương tự từ
các nguồn khác của Liên Xô, cũng như của Anh và Mỹ.
Đặc vụ trung thành và xuất sắc nhất
Nhà lãnh đạo Liên Xô không tin tưởng Sorge. Ông cho rằng đặc vụ trung
thành và xuất sắc nhất của mình là một kẻ phản bội đang âm mưu đào tẩu.
Vì vậy, ông không tăng cường phòng thủ và Nga gần như bị đánh bại trong vài ngày của cuộc chiến. Đó là một trong những sai lầm quân sự tồi tệ nhất mọi thời đại.
Chân dung Richard Sorge trên một con tem của Liên Xô năm 1965. Ảnh: Getty.
Dựa trên những nguồn tư liệu mới của Liên Xô cũ, bao gồm tài liệu lưu
trữ của Ủy ban An ninh Quốc gia (KGB), đơn vị tình báo của Nga, Owen
Matthews đã viết nên cuốn tiểu sử sống động và tỉ mỉ về điệp viên nổi
tiếng của Liên Xô. Matthews, cựu trưởng chi nhánh của Newsweek tại Moscow,
ngưỡng mộ bản tính “dũng cảm, thông minh và sôi nổi” của Sorge theo
nhiều cách dù liên tục nhắc nhở người đọc rằng đây cũng là người tàn
nhẫn, hào nhoáng và khoác lác. “Ông ấy là kẻ xấu trở thành điệp viên vĩ
đại”, Matthews kết luận. Mang nửa dòng máu Đức, nửa dòng máu Nga, sinh ra trong một gia đình
tư sản và lớn lên ở Berlin, Sorge gia nhập quân đội Đức khi chiến tranh
thế giới thứ nhất bùng nổ. Ông bị thương hai lần, lần thứ hai để lại cho ông bước đi khập khiễng
vĩnh viễn và lòng căm thù cháy bỏng đối với các giai cấp thống trị cũ
của châu Âu. Sorge đi theo chủ nghĩa cộng sản và gia nhập Quốc tế Cộng
sản vào năm 1921. Ông được chuyển sang tình báo quân đội Liên Xô và được đào tào tại
Moscow. Sorge sở hữu khả năng quyến rũ thượng thừa có thể lừa phỉnh đàn
ông và khiến phụ nữ không thể cưỡng lại. “Mọi người yêu mến ông ấy, thậm chí cả những người đàn ông bị ông ấy cho mọc sừng”, Matthews viết. Sorge được gửi đến Thượng Hải vào năm 1930 để tham gia một nhánh của
đảng Cộng sản được thành lập ở đó. Thượng Hải rất hợp với Sorge. Ông tận
hưởng cuộc sống với rượu và phụ nữ dù đã có vợ ở Moscow. Ông cũng đam
mê tốc độ với những chiếc môtô phân khối lớn. Một trong những mánh để quyến rũ phụ nữ mà Sorge ưa dùng là chở họ
trên xe máy, phóng qua các đường phố Thượng Hải để khiến họ sợ hãi tột
cùng trước khi đột ngột dừng lại.
Điệp viên hoàn hảo
Thành tựu lớn nhất của Sorge là ở Tokyo, nơi ông được phái đi vào năm
1933 để tìm hiểu xem người Nhật có kế hoạch xâm chiếm Nga trong liên
minh với Đức hay không và ngăn chặn họ nếu cần. Để chuẩn bị, ông đã dành một năm ở Berlin xây dựng vỏ bọc nhà báo,
phát triển liên lạc với các nhà ngoại giao, tướng lĩnh và chính trị gia
cao cấp. Ông được tin tưởng đến mức trở thành thành viên của đảng Quốc
xã.
Richard Sorge ở Tokyo, Nhật Bản, năm 1940. Ảnh: Alamy.
Tại Tokyo, ông kết bạn với đại sứ Đức (quyến rũ vợ ông và hai người
bạn của cô), người đã rò rỉ các kế hoạch cực kỳ bí mật với Sorge, cũng
như các nguồn tin của Nhật Bản. Ông cũng kết giao với một họ hàng của
Nhật hoàng Hirohito và một thành viên của ủy ban quân sự nội các Nhật
Bản. Sorge đã gửi thông tin quan trọng trở lại Moscow nhưng ông lại bị
cuốn vào cuộc thanh trừng của Stalin. Trong thời gian đó, hầu hết quan
chức tình báo Liên Xô đã bị xử tử hoặc gửi đến Gulag. Sorge bị nghi ngờ về tội phản quốc và cũng là người đưa thông tin mà
lãnh tụ Liên Xô không muốn nghe. Cảnh sát Nhật Bản cuối cùng đã bắt được
ông vào cuối năm 1941. Ông khai nhận toàn bộ và bị treo cổ sau hai năm
giam giữ. Liên Xô đã không tìm cách cứu ông. Khi Richard Sorge, người được biết đến là gián điệp vĩ đại nhất từng
sống, bị người Nhật xử tử vào ngày 7/11/1944, những lời cuối cùng của
ông là “Hồng quân!”, “Quốc tế Cộng sản!” và “Đảng Cộng sản Liên Xô!”.
Tất cả đều được nói bằng tiếng Nhật lưu loát cho những kẻ bắt giữ mình. Ian Fleming, tác giả của James Bond, gọi Sorge là “gián điệp đáng gờm
nhất trong lịch sử”. Nhà văn John le Carré nghĩ rằng ông ấy “hoàn hảo”.
Tuy nhiên, theo Financial Times, khi nhìn vào bức tranh toàn
cảnh, Sorge đã thất bại. Người Đức đã xâm chiếm và hơn 20 triệu người
Nga đã thiệt mạng trong chiến tranh. Dù xuất sắc và quyến rũ đến thế
nào, Sorge không thể tìm cách ngăn chặn nó. Ông bị đánh bại bởi vấn đề mà các gián điệp phải đối mặt kể từ Trận
Actium thời Cộng hòa La Mã đến Iraq thời hiện đại. Các nhà lãnh đạo
thường chỉ nghe những gì họ muốn nghe và hành động dựa trên thông tin mà
họ thấy hữu ích về mặt chính trị đối với mình. Vì vậy, cuốn sách của
nhà báo Matthews vẫn rất phù hợp với ngày nay.
Tình báo Mossad Israel huấn luyện phiến quân Syria chống lại Assad
Minh Nhật Chủ Nhật, ngày 16/06/2019 15:00 PM (GMT+7)
(Dân Việt) Cơ
quan tình báo quốc gia của Israel, được gọi là Mossad đang đào tạo các
nhân viên an ninh của Lực lượng Dân chủ Syria (SDF) do Mỹ hậu thuẫn,
al-Khabour.
Lực lượng Dân chủ Syria (SDF)
Al-Khabour, hãng tin tức hoạt động mạnh ở phía đông bắc Syria tiết lộ
vào ngày 14/6 rằng, 20 nhân viên của Đơn vị Bảo vệ Nhân dân người Kurd
(YPG), nòng cốt của SDF, đang trên đường đến Israel để tham gia khóa
huấn luyện của Mossad. Các nhân viên được chọn đã vượt qua một số bài
kiểm tra, được tổ chức tại khu vực do SDF tổ chức. Liên quan đến mục đích của chương trình này, nguồn tin cho rằng
Israel muốn thiết lập một lực lượng tình báo thân thiện trong các khu
vực do SDF nắm giữ. Lực lượng này sẽ tuyển mộ điệp viên cho Mossad và
cung cấp thông tin quan trọng cho Israel. Al-Khabour đã xác định ba nhân viên của SDF sẽ được đào tạo ở Israel
là Ali Mohamed Hassan, Riber Abdul Razzaq Ahmed và Berkhdan Aziz Murad. Trong khi thông tin này vẫn chưa được xác nhận, SDF thực sự đang nỗ
lực để xây dựng một số mối quan hệ với Israel trong vài tháng qua. Đầu
năm nay, nhóm người Kurd đã cho phép truyền thông Israel hoạt động lần
đầu tiên tại các khu vực của họ.
Nhật Bản bắt tay với liên minh tình báo Five Eyes
(PL)- Khi mối đe dọa chung từ Trung Quốc ngày càng rõ nét thì tầm
nhìn an ninh của Nhật Bản và liên minh tình báo Five Eyes càng xích lại
gần nhau hơn bao giờ hết.
Five Eyes là liên minh chia sẻ thông tin
và dữ liệu tình báo lâu đời nhất và thành công nhất trên thế giới. Được
hình thành sau Thế chiến II, liên minh bao gồm Mỹ, Anh, Úc, Canada và
New Zealand (thuật ngữ Five Eyes bắt nguồn từ cụm từ “AUS/CAN/NZ/UK/US
EYES”, nghĩa là thông tin được chia sẻ giữa năm thành viên).
Five Eyes và Nhật Bản trong tư thế “cần có nhau”
NB đã có một lịch sử hợp tác lâu dài với
Five Eyes trong lĩnh vực tình báo trong thời kỳ Chiến tranh lạnh - đến
mức các nhà phân tích đã xếp quốc gia này, một cách không chính thức,
trở thành “Con mắt thứ sáu” của Five Eyes.
Các cuộc trò chuyện với giới chức Five
Eyes, cả quá khứ và hiện tại, cho thấy rõ ràng NB sẽ rất được hoan
nghênh trở thành thành viên chính thức. Thật khó để tìm ra ai phù hợp
hơn NB trong việc thu thập thông tin tình báo ở những nơi như biển Đông,
biển Hoa Đông cũng như ở TQ và bán đảo Triều Tiên. NB cũng có thể chia
sẻ gánh nặng với Úc và New Zealand trong việc thực hiện tình báo ở Đông
Nam Á
Chính
NB cũng sẽ được hưởng lợi rất nhiều khi có thể góp phần thiết lập
chương trình nghị sự cho các hoạt động tình báo chung. Nó sẽ mở rộng cơ
hội xây dựng khả năng tương tác của các hệ thống phòng thủ với Mỹ và
“năm con mắt” còn lại. Đồng thời, NB có thể được tích hợp vào một mạng
lưới hợp tác công nghiệp quốc phòng như NTIB.
Pháp và Đức được yêu cầu tham gia vào
năm 2009, tuy nhiên cả hai đều từ chối. Phần lớn là vì hai quốc gia này
sợ rằng các hoạt động tình báo của họ bên ngoài Five Eyes có thể bị xâm
phạm. Nhưng NB thì khác. Lập trường mới chủ động hơn của NB trên trường
thế giới khiến cho mọi đề nghị tham gia sẽ được xem xét thuận lợi hơn
bao giờ hết.
Vậy điều gì cần thiết để NB tham gia?
Một đề cử của Tổng thống Donald Trump sẽ là một bước quan trọng nhưng
không đủ nếu không có sự chấp thuận của các thành viên khác. Các thành
viên Five Eyes sẽ cần phải yên tâm về khả năng của NB trong việc xử lý
luồng dữ liệu tình báo, như một phần của các chính sách rộng lớn hơn về
an ninh công nghiệp quốc phòng.
Theo nhiều nhà quan sát, NB xứng đáng là
“Con mắt thứ sáu” và Five Eyes cũng đạt được nhiều lợi ích từ tư cách
thành viên của NB. Và điều này đặc biệt có ý nghĩa đối với Tổng thống
Trump và Thủ tướng Abe. Đối với ông Trump, điều này sẽ làm tăng đáng kể
đòn bẩy của ông trong việc đối phó với TQ. Còn đối với ông Abe, tư cách
thành viên chính thức sẽ mang lại cho ông vòng nguyệt quế với tư cách là
thủ tướng quan trọng nhất của NB trong thời kỳ hậu chiến.
Chính quyền Mỹ hiện lo ngại rằng bằng cách cho phép
Huawei phát triển các thiết bị công nghệ 5G, Anh đang gây nguy hiểm cho
vị thế của mình, vốn là một đối tác chia sẻ thông tin tình báo thân
thiết nhất của Mỹ và là một thành viên của nhóm Five Eyes.
Chung mối lo về Trung Quốc
Theo hãng tin Reuters, từ đầu năm
2018, Five Eyes đã trao đổi thông tin mật về hoạt động của TQ cho những
quốc gia có cùng mối quan tâm. Việc mở rộng hợp tác Five Eyes cho thấy
mặc dù Tổng thống Mỹ Donald Trump tuyên bố sẵn sàng đơn thân độc mã đấu
với TQ nhưng thành viên trong chính quyền của ông vẫn đang nỗ lực tạo ra
một liên minh đối phó với cường quốc châu Á mới nổi này một cách âm
thầm.
TQ những năm gần đây không ngừng mở rộng
đầu tư và hoạt động ra nhiều quốc gia, làm dấy lên mối lo ngại can
thiệp gây ảnh hưởng cho chính phủ các nước. Lần lượt Úc, Đức và Mỹ đã
lên tiếng cáo buộc Bắc Kinh cố gắng can thiệp, đầu tư mang mục đích
chính trị.
“Chúng tôi đang tăng cường tham vấn với
các đồng minh và đối tác cùng chí hướng về cách ứng phó với chiến lược
quốc tế quyết đoán của TQ” - một quan chức Mỹ tiết lộ sau cuộc họp giữa
các nước trong liên minh tình báo năm 2018. Động thái này cũng dập tắt ý
định lôi kéo các quốc gia châu Âu đứng về phía mình chống Mỹ của Bắc
Kinh, nhất là khi chính sách “nước Mỹ trên hết” của Tổng thống Donald
Trump gây cảm giác bất an ở châu Âu.
TQ cho đến giờ vẫn phủ nhận các cáo buộc
họ đang tìm cách gây ảnh hưởng đến các chính phủ nước ngoài và các
khoản đầu tư đều có mục đích chính trị. Dù vậy, nhiều nước đã tiến hành
các biện pháp hạn chế đầu tư của Bắc Kinh vào những công ty công nghệ
nhạy cảm và điều mà họ gọi là chiến dịch gây ảnh hưởng của TQ lên các
chính phủ, xã hội ở nước ngoài.
Thành công trong Chiến tranh lạnh và chống khủng bố Liên minh Five Eyes đã hoạt động rất thành công trong
Chiến tranh lạnh trong việc thu thập và chia sẻ dữ liệu liên quan đến
Liên Xô. Liên minh này đã hồi sinh mạnh mẽ sau sự kiện khủng bố tại Mỹ
ngày 11-9-2001 và kéo dài trong suốt cuộc chiến chống khủng bố từ đó đến
nay. Liên minh cũng xác định thông tin hoặc dữ liệu nào sẽ được chia sẻ
với các nước bên thứ ba, các thành viên khác của Tổ chức Hiệp ước Bắc
Đại Tây Dương (NATO) hoặc với các đồng minh đáng tin cậy như NB và Hàn
Quốc. Trở thành thành viên của Five Eyes là một bước quan trọng
trong việc xây dựng khả năng tương tác giữa các lực lượng vũ trang của
các thành viên, đặc biệt là Mỹ, cho phép hợp tác liền mạch trong các
hoạt động quân sự chung. Nó cũng tạo điều kiện cho việc bảo mật chung
của các mạng lưới. Ba thành viên của liên minh gồm: Anh, Úc và Canada
cũng là thành viên của Cơ sở Công nghệ và Công nghiệp quốc gia Mỹ (NTIB)
- chuỗi cung ứng toàn cầu của Lầu Năm Góc.
KIM NGUYÊN
Bí mật đen tối thời Chiến tranh Lạnh: Bi kịch chết chóc nhất trong lịch sử tên lửa Liên Xô
Trang Li |
11
Ảnh mang tính minh họa.
Ngày 24/10/1960 mãi trở thành ký ức đẫm máu đầy ám ảnh trong lịch sử hàng không Liên Xô.
Trước khi người Liên Xô mở ra kỷ nguyên khai phá vũ trụ vào năm 1961 với sự kiện phi hành gia Yuri Gagarin cùng con tàu vũ trụ
Phương Đông 1 thực hiện chuyến bay lần đầu tiên ra ngoài không gian kéo
dài 108 phút ngày 12/4 cách đây 57 năm thì vào năm 1960 lịch sử hàng không Liên Xô phải chứng kiến một thảm kịch chết chóc nhất trong ngành tên lửa hàng không tính cho đến năm 2018. Lịch
sử Liên Xô ghi nhận, mỗi một quyết định phóng tên lửa hay tàu vũ trụ
đều ít nhiều bị chi phối bởi các quyết định mang yếu tố chính trị cũng
như công nghệ bấy giờ. Một trong những quyết định sai lầm khiến Liên Xô mất đi một tài năng vũ trụ đáng buồn nhất trong lịch sử là trường hợp của kỹ sư hàng không kiêm phi công bay thử nghiệmVladimir Komarov
(bạn thân của "huyền thoại vũ trụ" Yuri Gagarin") người phải thực hiện
"sứ mệnh tự sát" - lái thử trên con tàu vũ trụ Soyuz 1 bất chấp những
phản đối của các kỹ sư (đọc chi tiết, tại đây). Thế nhưng... Lịch
sử hàng không Liên Xô cũng phải cay đắng ghi nhận, chưa có một thảm
kịch nào xảy ra do quyết định sai lầm của giới lãnh đạo mà cái giá phải
trả lại quá thảm khốc, đau đớn đến vậy!
Một năm sau khi Chiến tranh Thế giới thứ 2
(1939 - 1945) kết thúc, Mỹ và Liên Xô bước vào cuộc chiến tranh mới.
Không đổ máu trên chiến trường, không có súng đạn khiến bao gia đình ly
tán, cuộc Chiến tranh Lạnh
của hai cường quốc diễn ra giữa những cuộc chạy đua không ngừng nghỉ
suốt hơn 4 thập kỷ về vũ khí (hạt nhân), công nghệ hiện đại và các sứ
mệnh không gian khiến thế giới đi từ bất ngờ này đến ngỡ ngàng khác. Không
chỉ thế, Chiến tranh Lạnh cũng là cuộc "cân não" của những bí mật mà
đôi bên đều muốn giấu nhẹm đi trước địch thủ cũng như trước dư luận của
người dân và thế giới. Bởi vậy mới có chuyện, khi tất cả mọi chuyện đã
ngã ngũ, khi cuộc chiến đó tạm thời đỡ nhức nhối thì người ta mới đưa
những bí mật đó ra ánh sáng. Nedelin Catastrophe (hay Nedelin Disaster - Thảm kịch Nedelin) là một câu chuyện như thế!
"Nọc độc của Quỷ"
Trước khi mở ra kỷ nguyên khai phá vũ trụ cho loài người, Liên Xô đã khởi xướng chương trình phát triển tên lửa xuyên lục địa đầu tiên trên thế giới từ trước khi Chiến tranh Thế giới thứ hai nổ ra. Khoảng
hai thập kỷ sau, dưới sự chỉ đạo tài ba của nhà khoa học, kỹ sư kiêm
nhà thiết kế tên lửa hàng đầu của Liên Xô là Sergey Korolev, R-7
Semyorka, thế hệ tên lửa xuyên lục địa đầu tiên trên thế giới của Liên
Xô ra đời. R-7 Semyorka phóng thử thành công vào tháng 8/1957. Vốn
say mê với lý tưởng du hành vũ trụ bằng tên lửa, tổng công trình sư
Sergey Korolev đã đệ trình ý tưởng của mình lên Viện Hàn lâm khoa học
Liên Xô với mong muốn sử dụng tên lửa R-7 đưa vệ tinh lên quỹ đạo Trái
Đất. Ý tưởng được tán thành nhanh chóng. Kết quả, ngày 4/10/1957,
vệ tinh nhân tạo đầu tiên trên thế giới do Liên Xô chế tạo là Sputnik 1
được tên lửa R-7 phóng thẳng lên quỹ đạo. Thế giới bất ngờ! Người Mỹ lo
sợ! Kể từ đó, thay vì mải miết sản xuất vũ khí hạt nhân, người Mỹ bắt đầu mở cuộc chạy đua vào không gian với người Liên Xô. Đôi
ba năm sau, những cải tiến trong chế tạo tên lửa được các tài năng Liên
Xô không ngừng thực hiện. Lần này, dưới sự chỉ đạo trực tiếp của tổng
công trình sư Mikhail Yangel, tên lửa xuyên lục địa R-16 ra đời với cải
tiến trong sử dụng nhiên liệu động lạnh.
Tên lửa xuyên lục địa R-16 của Liên Xô: Dài 30,4m, đường kính 3m, nặng 141 tấn.
Dự
định thay thế tên lửa R-7, R-16 được giới kỹ sư Liên Xô đánh giá là
"thực tế hơn" vì một tên lửa có thể được chuẩn bị nhanh hơn nhiều nhờ
các cơ chế tiếp nhiên liệu đơn giản. Loại nhiên liệu được lựa chọn là hợp chất hóa học UDMH [Công thức hóa học: H2NN(CH3)2] bị oxy hóa với tỉ lệ 73% axit nitric / 27%
hỗn hợp nitơ tetroxit. Axit UDMH-nitric là một hợp chất độc hại, gây
ung thư, ăn mòn cực cao ở dạng lỏng, khi bị đốt cháy chúng ta ra khí độc
chết người, đó là lý do, giới khoa học tên lửa Liên Xô gọi nó với biệt
danh "Nọc độc của Quỷ" (Devil's Venom). Tuy vậy, vì sử dụng với mục đích khoa học nên "Nọc độc của Quỷ" được giới chuyên môn ủng hộ.
NEDELIN:Cái tên khởi nguồn và kết thúc của thảm kịch
Nguyên soái Mitrofan Nedelin, Tư lệnh các lực lượng tên lửa chiến lược Liên Xô.
Nguyên soái Mitrofan Nedelin, Tư lệnh các lực lượng tên lửa chiến lược Liên Xô, được giao trọng trách phát triển R-16. Vì nôn nóng muốn "lấy lòng" giới lãnh đạo bằng cách ra đời R-16 đúng dịp kỷ niệm ngày lễ Cách mạng tháng
Mười Nga (Bolshevik Revolution), Nguyên soái Mitrofan Nedelin đã gây áp
lực về thời gian với đội kỹ thuật của tổng công trình sư Mikhail
Yangel. Vì phải chế tạo tên lửa cho kịp tiến độ, đội kỹ sư đã
bỏ qua tất cả các biện pháp an toàn cần thiết vào thời điểm đó. Vì áp
lực từ Moskva, đội kỹ sư có lúc đã phải làm việc liên tục trong 72 giờ
đồng hồ. Một điều trớ trêu nữa, do những đấu đá nội bộ trong cộng
đồng những nhà khoa học tên lửa Liên Xô, nên tổng công trình sư Mikhail
Yangel không được làm việc với những kỹ sư tài năng nhất cho dự án phát
triển R-16, trong đó có kỹ sư Nikolay Pilyugin, người đã thiết kế phần
lớn các hỏa tiễn hướng dẫn thời đó. Thay vì thế, Mikhail Yangel phải làm việc với Boris Konoplev, một nhà phát minh
xuất sắc và chuyên gia hàng đầu về kỹ thuật vô tuyến, nhưng ông này
không phải là người có quy củ. Hệ quả, mọi công tác kiểm tra đều được
làm qua loa trước khi cài đặt vào hệ thống R-16. Mặc cho thực tế
là R-16 còn quá nhiều thiếu sót về kỹ thuật, cuối tháng 9/1960, quả tên
lửa xuyên lục địa R-16 nặng hơm 140 tấn - "quân bài chiến lược" mà lãnh
đạo nhà nước Xô Viết Nikita Khrushchev nóng lòng chờ đợi - được chuyển
đến bãi thử Tyuratam Launch Complex, tiền thân của sân bay vũ trụ
Baikonur, để chờ ngày phóng. Đến ngày 21/10/1960, tên lửa R-16
được đưa lên bệ phóng. Một ngày trước khi thảm kịch xảy ra, người ta
tiến hành bơm nhiên liệu "Nọc độc của Quỷ" cho R-16. Quá trình bơm
nhiên liệu không diễn ra suôn sẻ như Nguyên soái Mitrofan Nedelin mong
ngóng, bởi, sau khi bơm xong, đội kỹ thuật phát hiện dấu hiệu thùng chứa
nhiên liệu bị rò rỉ, ước tính với tốc độ khoảng 145 giọt/phút. Sự
cố này càng khiến Mitrofan Nedelin đi từ sai lầm này đến sai lầm khác.
Thay vì ra lệnh cho đội kỹ thuật rút cạn nhiên liệu để bịt kín chỗ rò rỉ
thì Nedelin ra lệnh cho họ sữa chữa tên lửa trong khi nhiện liệu chết
người vẫn còn đầy trong thùng chứa khổng lồ, nhằm tiết kiệm thời gian. Sai
lầm tiếp theo của vị Nguyên soái này là thay vì giám sát đội kỹ sư từ
xa, ông lại bất chấp quy định an toàn, tự cho phép mình và khoảng hơn
100 nhân vật có tiếng nữa đến bãi phóng nơi đặt quả tên lửa để trực tiếp
giám sát mọi việc.
24/10/1960 - Ngày đen tối trong lịch sử hàng không Liên Xô
Sau
khi chỗ rò rỉ được hàn. Áp lực từ giới lãnh đạo Liên Xô khiến cho
Nguyên soái Mitrofan Nedelin thêm bồn chồn. Để rồi ngày 24/10/1960 mãi
trở thành ngày đen tối với tất cả những nhân vật có mặt tại bãi thử
Tyuratam. Ngày hôm đó, khoảng hơn 200 người có mặt tại Tyuratam để
chứng kiến sự kiện phóng thử tên lửa R-16. Trước khi tiến hành phóng,
động cơ tầng 2 đột nhiên phát hỏa do lỗi kỹ thuật. Ngọn lửa nhanh chóng
bao trùm xuống khoang chứa nhiên liệu khổng lồ ở tầng 1. Tất yếu,
"Nọc độc của Quỷ" phát huy "tác dụng": Một quả cầu lửa khổng lồ đường
kính 120m bao trùm cả quả R-16 dài 30,4m. Quả cầu lửa lớn đến mức người
ta vẫn có thể quan sát được nó ở vị trí cách bãi thử 50km.
Vụ nổ tạo nên một quả cầu lửa khổng lồ đường kính 120m. Ảnh minh họa.
Những
người quan sát việc phóng ở gần biển lửa bị chết ngay lập tức do sức
nóng hàng nghìn độ C. Những người khác chết do bị bỏng nặng. Số khác
chết cho ngạt khí độc do Axit UDMH-nitric tạo ra. Trong số đó, có Nguyên
soái Mitrofan Nedelin - thi thể của ông bị ngọn lửa làm biến dạng đến
mức không thể nhận diện! Tổng công trình sư Mikhail Yangel may mắn thoát nạn vì khi đó ông đang ở bãi thử xa hàng trăm mét để hút thuốc! Hãng thông tấn của Liên Xô giật tít: Nguyên soái Mitrofan Nedelin tử nạn trong một vụ tai nạn máy bay! ...Vì một lẽ: Lãnh đạo Liên Xô Nikita Khrushchev hạ lệnh giấu nhẹm sự việc và coi đó là bí mật quốc gia hàng đầu. Khi "quân bài" R-16, nếu thành công sẽ đóng vai trò rất lớn làm thay đổi cán cân trong cuộc chạy đua không gian với Mỹ,
bị thất bại, tất yếu, lãnh đạo Liên Xô buộc phải che đậy lại. Mãi đến
năm 1989, khi Chiến tranh Lạnh đi vào hồi kết, sự thật về cái chết của
Nguyên soái Mitrofan Nedelin cùng hàng trăm người khác mới được đưa ra
ánh sáng. Người Liên Xô gọi Nedelin Catastrophe, thảm họa mang tên Nguyên soái Mitrofan Nedelin, là bi kịch đẫm máu nhất trong lịch sử tên lửa của nước này. Một
lần nữa, họ vinh danh Mitrofan Nedelin là anh hùng Sô Viết, trang trọng
đặt thi thể của ông tại Nghĩa trang tường Điện Kremlin ở Quảng trường
Đỏ, thủ đô Moskva. Cho đến nay, Nedelin biến ngày 24/10/1960 mãi
trở thành ký ức đẫm máu đầy ám ảnh trong lịch sử hàng không Liên Xô nói
riêng và lịch sử hàng không thế giới nói chung.
Đọc các bài viết trong series Soviet Secret Files:
(ĐC sưu tầm trên NET) Oscar Là Ai? Câu Chuyện Về Cuộc Đời Bi Kịch Của “Thiên Tài Bị Xã Hội Vùi Dập” Ít ai biết rằng, giải thưởng danh giá của làng điện ảnh – Oscar - được lấy theo tên của nhà văn nổi tiếng Oscar Wilde. Năm 1854, khi rửa tội cho con trai thứ hai nhà Wilde, Đức cha Prideaux Fox không hề biết rằng cậu bé này rồi sẽ là “thiên tài bất thường” của Ireland. Về sau, Oscar Wilde đã trở thành một trong những nhân vật đặc biệt nổi bật của giới văn chương, người luôn ở giữa tôn vinh và hạ nhục, giữa cái đẹp và sự tăm tối, giữa sa hoa và khốn cùng. Không nhiều người có thể trả lời câu hỏi: " Oscar là ai?" Quang Thạch | 01/03/2016 10:07 7 Theo một video phỏng vấn ngay trước thềm Oscar 2016, các diễn viên tới dự giải Oscar cũng không thể trả lời câ...
(ĐC sưu tầm trên NET) Thời sự quốc tế sáng 10/5/2018 TIN TỨC VIỆT NAM MỚI NHẤT TRONG NGÀY 10/5/2018 60 Giây Chiều - Ngày 09/05/2018 - Tin Tức Mới Nhất An ninh ngày mới ngày 09.05.2018 - Tin tức cập nhật TRỰC TIẾP THỜI SỰ BIỂN ĐÔNG 10/05 Cận cảnh Tàu Việt Nam trong diễn tập Komodo 2018 Hai Chị Em - Trung Hậu và Thuỵ Vân Hội nghị Trung ương 7: Sẽ có quyết sách dẹp vấn nạn "cả họ làm quan" (TTXVN/Vietnam+) 09/05/2018 21:06 GMT+7 Bản in Đại biểu dự hội nghị. (Ảnh: Phương Hoa/TTXVN) Hội nghị lần thứ 7, Ban Chấp hành Trung ương Đảng khóa XII, diễn ra từ ngày 7-12/5, tập trung thảo luận, cho ý kiến về các nội dung: xây dựng đội ngũ cán bộ các cấp, nhất là cấp chiến lược đủ phẩm chất, năng lực và uy tín, ngang tầm nhiệm vụ; cải cách chính sách tiền lương đối với cán bộ, công chức, viên chức, lực lượng vũ trang và người lao động trong các doanh nghiệp; cải cách chính sách bảo hiểm xã hội; và một ...
(ĐC sưu tầm trên NET) Giang hồ Sài Gòn trước 1975: Trùm du đãng Mã Thầu Dậu Mã Thầu Dậu nhận tất cả đơn đặt hàng giải quyết ân oán trong đời thường và trong làm ăn. "Tiền nào của ấy" nên mỗi dịch vụ đều có mức giá khác nhau. Trùm du đãng một vùng rộng lớn không hành xử như đám du đãng cắc ké. Chợ Lớn có trùm du đãng ba Tàu Mã Thầu Dậu (Con ngựa đầu gà) nổi tiếng với vai trò đâm thuê chém mướn. Trùm bảo kê Mã Thầu Dậu xuất thân từ một đứa bé con nhà người Hoa gốc Quảng Đông nghèo. Tuổi thơ Mã Thầu Dậu trải qua nhiều cơ cực, từ bửa củi thuê, bưng cà phê, bưng hủ tiếu đến cả rửa chén bát thuê. Mã Thầu Dậu khởi nghiệp trùm du đãng khét tiếng trên hè phố La Kai (đường Nguyễn Tri Phương, quận 5 ngày nay). Hắn nổi danh nhờ những vụ trừ khử đám du thủ du thực cho các chủ tiệm buôn giàu có người Hoa và dần đi theo con đường đâm thuê chém mướn chuyên nghiệp. Khu vực chợ Lớn xưa Băng du đãng Mã Thầu Dậu h...
Nhận xét
Đăng nhận xét