An Chi: Lời lẽ của An Chi
dù chua đến mấy và cay đến đâu thì vẫn nằm trong giới hạn của sự nghiêm
túc. Chứ lời lẽ của BS Nguyễn Hy Vọng thì mới là bỉ ổi thượng thặng.
Xin trích vài đoạn văn “mẫu” của ông đốc tờ này để bạn Năm Móc và các
bạn khác có thể… thưởng lãm (những chữ in đậm là do An Chi nhấn mạnh).
Trong bài “Dính líu giữa tiếng Việt và tiếng Lào Thái”, ông ta viết:
“Mục đích bài này là để giúp ta bỏ đi
cái ý nghĩ sai lầm của phần lớn các nhà học giả Hán Việt xưa nay đã tiêm
nhiễm vào đầu óc họ, cho là “tiếng Việt do từ tiếng Tàu mà ra [sic] @
Phạm Quỳnh, Trần Trọng Kim, Lê Ngọc Trụ, Nguyễn Phương, Huệ Thiên… và hàng tá các ông khác nữa”.
“Các ông khác” có phải là những lọ dầu
cù là hay những ống kem đánh răng đâu mà đốc tờ Vọng trịch thượng đếm họ
bằng cái cách nói “hàng tá”. Nguyễn Hy Vọng mắc chứng vĩ cuồng thô lậu;
ông ta tưởng với bộ Từ điển nguồn gốc tiếng Việt thì mình đang
đứng trên đỉnh cao của học thuật chứ không ngờ rằng về mặt ngữ học thì
bộ sách của ông ta chẳng có bao nhiêu giá trị.
Trong bài “Chỗ đứng của tiếng Việt trong thế giới”, ông ta viết:
“Ai không tin, xem quyển sách du lịch chính thức của họ in ra cho cả thế giới xem… cười chơi muốn nứt bọng đái luôn”.
Rồi ngay bên dưới, ông ta gọi các nhà lãnh đạo bằng cái danh ngữ mất dạy là bọn bắc cụ bắc bộ phủ mà
quên rằng chính hai chữ “bắc cụ” của đốc tờ Vọng mới chứng tỏ rằng tác
giả của nó là một kẻ thậm vô giáo dục, nếu không nói là vô loài. Cũng
trong bài này, ông ta đã chế nhạo:
“Còn Việt ta thì trong nước dành nhau loạn cào cào khoe tiếng Anh bồi, Mỹ bồi trong các sách vở của chúng nó là childish garden [vườn trẻ] trong công viên Phan Thiết!”.
Đốc tờ Vọng chế nhạo như thế nhưng cái childish garden ở Phan Thiết bất quá cũng chỉ xuất hiện tại một địa phương nhỏ trong nước chứ với thâm niên 30 năm làm Từ điển nguồn gốc tiếng Việt như Nguyễn Hy Vọng mà gọi sách của mình là cognatic dictionary (Xin xem bài của An Chi trên NLM số 448) thì mới là họ “Bồi” cấp U-ết-xì-a.
Trong bài “Những con đường đi không tới”, ông ta viết: “Chém giết nhau đâu mấy sản, ngủ với nhau đêm này qua đêm nọ
cả mấy triệu năm mới có được 7 ngàn triệu mạng người hôm nay đó chứ,
mới có được 6 ngàn tiếng nói khác nhau đó chứ! (…). Cái sức sống, cái
nếp sống quá mạnh của con người đã làm ra thế giới ngôn ngữ chứ đâu có
phải ăn rồi chỉ lo xách đít di chuyển khắp nơi”.
“Ngủ với nhau đêm này qua đêm nọ”, kinh
nghiệm bản thân chăng? Thật là trơ trẽn một cách khả ố. Rồi ở một đoạn
bên dưới, đốc tờ Vọng lại viết:
“Mấy cái quyển sách về nhân chủng/anthropology toàn nói bậy nói bạ nói quấy nói quá mà chúng nó nghe ầm ầm!”.
Chẳng biết đốc tờ Vọng dùng hai tiếng
“chúng nó” để chỉ ai chứ “mấy cái quyển sách về nhân chủng/anthropology”
kia thì có giá trị gấp trăm lần bộ Từ điển nguồn gốc tiếng Việt của Nguyễn Hy Vọng. Còn kẻ nói bậy nói bạ nói quấy nói quá thì chính là đốc tờ Vọng chứ chẳng phải là ai khác.
Trong bài “4.000 năm ròng rã buồn vui”, ông ta viết về dân số Việt Nam:
“Từ # 1 triệu người cách đây 2 ngàn năm, nay chúng ta đã là 83 triệu, đông hết biết luôn, sinh đẻ quá nhiều, chết bao nhiêu cũng không sao!”.
Đốc tờ Vọng nói như vậy, có lẽ cũng đồng
điệu với tay hồng y Spellman, khi hắn ta kêu gọi Mỹ ném bom nguyên tử
xuống Việt Nam, cách đây 60 năm.
Trong bài “Cái nguồn và cái ngọn”, ông ta viết:
“Xin ôm bụng cười nửa phút, vì nó buồn
cười quá! chong xáng vườn chè làm xao mà tiêu chuẩn cho nổi, chính chị
chính em thì làm xao mà hiểu được ai là chị ai là em!, làm xao cho xướng thì hết mẹ nó cái xướng rồi”.
“Xướng” mãi thế nào được khi bị 27.500 mục từ trong “cognatic dictionary” của Nguyễn Hy Vọng ám ảnh?
Trong bài “Cái hệ lụy Tàu Việt”, đốc tờ Vọng viết:
“Viết đến đây tôi muốn lộn máu,
đành tạm ngưng. Tôi thách mấy ông Hán Việt nô lệ chữ Tàu cho quá năm
2002, hãy công khai tranh luận với tôi về điểm này, độc giả sẽ là người
làm trọng tài”.
Vì tức “lộn máu” lên đầu, không còn
bình tĩnh nên đốc tờ Vọng mới dại dột thách thức như trên chứ ai thừa
thì giờ, công sức mà đi tranh cãi với kẻ điên, thằng khùng. Và đốc tờ
Vọng đã quên một cách đáng thương rằng, chính mình cũng nô lệ chữ Tàu.
Chẳng thế mà vật tượng trưng tinh thần cho cá nhân là con triện vuông
của Nguyễn Hy Vọng lại viết bằng chữ Tàu, phân nửa bên phải thì nguyên
chữ “Nguyễn” [阮] màu trắng trên nền đỏ; phân nửa bên trái là hai chữ
“Hy” [希] (trên), “Vọng” [望] (dưới) màu đỏ trên nền trắng (Xin x. ảnh
[đen trắng]). Chạy trời không khỏi nắng, cuối cùng đốc tờ Vọng cũng phải
nhờ đến chữ Tàu để làm con dấu. Huống chi, đốc tờ Vọng còn quá ngu ngốc
nên cứ luôn mồm nhắc đến chuyện “tiếng Việt do từ tiếng Tàu mà ra” chứ
điều mà hiện nay người ta đang nói - và tuyệt đối đúng - chỉ là các từ
và hình vị Hán Việt trong từ vựng tiếng Việt chiếm một tỷ lệ khá cao.
Chỉ có những kẻ dốt ngữ học và Việt ngữ học mới nhắm mắt phủ nhận điều
này.
Trong bài “Khi hai tiếng nói sống chung với nhau > 2000 năm”, ông ta đã bịa đặt một cách khả ố:
“Ngay cả một cái Viện ngôn ngữ của [Việt
Nam - AC] cũng sản xuất ra những từ điển đầu voi đuôi chuột, bịa ra
những định nghĩa quái đản như là “chốc mòng” thì bảo nghĩa là “rộn rịp”!
chững chạc thì bảo nghĩa là “ngay ngắn” [sic] thật là hết thuốc chữa!
[Từ điển tiếng Việt của Hoàng Phê]”.
Thực ra, Từ điển tiếng Việt của
Viện Ngôn ngữ học do Hoàng Phê chủ biên đã giảng chính xác “chốc mòng”
là “trông mong” với ghi chú “động từ; cũ; văn chương” còn “chững chạc”
là “đứng đắn, đàng hoàng”, với ghi chú “tính từ”, chứ đâu có giảng bậy
bạ, ngu xuẩn như đốc tờ Vọng đã bịa đặt một cách bỉ ổi. Từ điển của
người ta “chững chạc” như thế mà ông ta lại mở mồm mở miệng nói là từ
điển đầu voi đuôi chuột. Kẻ làm từ điển vừa cẩu thả vừa không có phương
pháp chính là Nguyễn Hy Vọng với bộ Từ Điển Nguồn Gốc Tiếng Việt, mà chúng tôi cũng đã vạch ra trong bài trước trên Năng lượng Mới số 448 & 449. Ở đây, xin nêu thêm vài chi tiết.
Trong bài “ANH TAM là gì”, nói về hai chữ (tạm đọc) là “song viết”, ông ta kể:
“May thay khi đọc đến quyển từ điển Lào
của Russell Marcus thì tôi thấy hai chữ song viết lù lù ra đó, có nghĩa
là cách ăn mặc và cách ăn ở. Tôi lại xem quyển từ điển Thái của Mary
Haaj thì may thay cũng hai chữ đó sờ sờ trước mắt, trang 138 và tôi đã
trình bày hai chữ đó, đương nhiên là viết bằng chữ Lào và Thái chứ không
phải chữ Nôm, với học giả Đoàn Khoách”.
Xin thưa rằng không có Mary Haaj nào là
tác giả của từ điển cả mà chỉ có Mary R. Haas nhưng quyển từ điển của bà
Haas cũng không phải là “Thai Dictionary” vì bà chỉ làm quyển song ngữ Thai-English Student’s Dictionary
do Stanford University Press ấn hành (bản đầu tiên là vào năm 1964) mà
thôi. Chẳng những trật vuột trong lời kể trên đây, mà ở phần “Tài liệu
tham khảo” trong bài “Tết là gì?”, đốc tờ Vọng cũng ghi: “Thai
Dictionary, Mary Haaj, Stanford, CA 1964”. Rồi trong phần “Tài liệu tham
khảo” hoành tráng hơn, thấy được tại trang http://lhccshtd.org/,
ông ta cũng ghi y chang: “Thai dictionary / Mary Haaj, Stanford, CA
1964”. Hiển nhiên là đốc tờ Vọng đã ghi sai từ tên quyển từ điển cho đến
tên của tác giả. Trong “MARY R. HAAS 1910 - 1996 A Biographical Memoir” do Kenneth L. Pike viết, chúng tôi cũng chỉ thấy Pike ghi nhận như sau: “1964 Thai-English Student’s Dictionary
Stanford: Stanford University Press.” Rồi trong bài ghi nhận của James
A. Matisoff (University of California, Berkeley) nhan đề “Remembering
Mary R. Haas’s Work on Thai”, tác giả này cũng chỉ nhắc: “In my opinion,
Haas’s crowning achievement in Thai studies is her wonderful Thai-English Student’s Dictionary (1964)” (Theo ý kiến của tôi, thành tựu đỉnh cao của Haas là quyển Thai-English Student’s Dictionary tuyệt diệu (1964) của bà”.
Hai cái sai (“Thai Dictionary” &
“Haaj”) của Nguyễn Hy Vọng cứ lặp đi lặp lại, ngay cả trong thư mục,
khiến ta nghĩ rằng không biết có thật đốc tờ Vọng đã tận mắt nhìn thấy
quyển từ điển của Mary R. Haas hay không, hay là người khác cung cấp
thông tin cho ông ta còn chính ông ta thì đã nhớ tên sách và tên tác giả
một cách trật vuột? Ông ta nói trang 138 nhưng không cho biết đây là
trang 138 trong bản nào vì bản in lần đầu tiên của Thai-English Student’s Dictionary là
vào năm 1964 nhưng nó cũng đã được in lại ngay trong năm đó, rồi những
lần in sau đó là vào 1966, 1967. Từ 1967 đến nay, không biết có in thêm
lần nào nữa không (vì chúng tôi dùng bản 1967).
Ai nói bậy nói bạ nói quấy nói quá?
Bạn đọc: Xin phản hồi chớp nhoáng. Tôi đã đọc bài của ông An Chi nhan đề “Những lời vàng ...
|
Quyển từ điển của Mary R. Haas đươc ghi
rõ ràng là “With the assistance of [Với sự trợ giúp của - AC] George V.
Grekoff, Ruchira C. Mendiones, Waiwit Buddhari, Joseph R. Cooke, Soren
C. Egerod”. Còn từ điển của Nguyễn Hy Vọng? Tuyệt đối không có ai trợ
giúp chăng? Nhưng ngay cả khi nó là công trình của một mình đốc tờ Vọng
thì cái công của ông ta cũng chỉ là ở chỗ tập hợp dữ liệu chứ cái phần
vắt óc để tìm cho ra từ nguyên đích thực thì… không có gì. Đốc tờ Vọng
hoàn toàn khác BS Trần Ngọc Ninh với bộ Cơ cấu Việt ngữ và BS Bùi Minh Đức với bộ Từ điển tiếng Huế.
Hai vị này không hề ba hoa và nói bậy nói bạ nói quấy nói quá như đốc
tờ Vọng. Họ đâu có cần làm xằng như thế vì sách của họ tự nó đã có giá
trị đích thực.Xin nêu thêm vài chi tiết đơn giản để khẳng định đốc tờ
Vọng không đủ tư cách làm từ điển từ nguyên. Trong bài “Dính líu giữa
tiếng Việt và tiếng Lào Thái”, ông ta đã so sánh:
“Ta và Khmer đã chung nhau tiếng đó từ mấy ngàn năm về trước.
xí quách < chi-wích / life / đời sống
Thí dụ: hết xí quách, tan tành xí quách cũng là tiếng chung của Thái, Lào, Miên [gốc Sanskrit].”
Dĩ nhiên là tiếng Khmer chi-wích thì do tiếng Sanskrit mà ra và nguyên từ (etymon) của nó là jīvita, có nghĩa là sự sống, sinh vật. Đến như xí quách mà bảo là tiếng Việt cùng gốc với chi-wích
của Khmer thì ai ở trong Nam mà có đến ăn ở xe mì hoặc tiệm mì của
người Hoa cũng phải “ôm bụng cười nửa phút” (nhưng không “nứt bọng
đái”). Xí quách là do âm Quảng Đông chű quách
của hai chữ Hán [猪骨] mà âm Hán Việt là “trư cốt”, có nghĩa là xương
heo. Nước lèo dùng cho mì, hủ tiếu được nấu bằng xương heo và khi xài
hết nước lèo thì còn lại là xương heo đã ninh rục trong thùng nước lèo.
Những khúc xương còn dính thịt và những ống xương còn đầy tuỷ là món
bình dân yêu thích của dân nhậu - mà chả cứ gì với dân nhậu; có một xị
đế với một đĩa xí quách để lai rai thì chẳng còn cần biết Nguyễn Hy Vọng
là ai. Xí quách mà chung gốc với Khmer chi-wích
thì chỉ chứng tỏ Nguyễn Hy Vọng không đủ khả năng để làm “cognatic
dictionary” mà thôi. Chỉ có Thái và Lào mới chung gốc với Khmer trong
trường hợp này mà trong trường hợp này thì các từ hữu quan cũng chỉ là
borrowings (từ mượn) chứ không phải cognates (đồng nguyên).
Sau đây là vài thí dụ đơn giản nữa. Trong bài “Đào sâu tiếng Việt”, đốc tờ Vọng khẳng định rằng tiếng Pali phloi cùng gốc với trời
của tiếng Việt. Nhưng xin thưa ngay rằng tiếng Pali không có phụ âm kép
“phl” và đây là chuyện sơ đẳng mà ai muốn làm từ nguyên học liên quan
đến tiếng Pali cũng cần phải biết. “Trời” trong tiếng Pali là “ākāsa”
hoặc “gagana”. Cũng liên quan đến tiếng Pali, trong bài “Bài toán của
tiếng Việt”, đốc tờ nhà ta đã khẳng định: “Sa- mạc là tập trung tư
tưởng, định thần , từ chữ “samadhi” / meditative incantation ”. Đúng ra thì tiếng Pali ở đây phải là samādhi (“a” dài [= ā] sau “m”) nhưng điều làm cho ta kinh ngạc là samādhi mà lại cùng gốc với “sa-mạc” (desert) thì không biết đốc tờ đã thấy nó ở quyển từ điển thần kỳ nào. Còn Tàu thì phiên âm samādhi
thành “tam ma địa” [三摩地] hoặc “tam muội [三昧], là hai hình thức thường
thấy nhất, để diễn dạt cái ý “định thần”, “tập trung tư tưởng”.
Sau đây là dẫn chứng cuối cùng để khẳng
định rằng đốc tờ Vọng không đủ tư cách để làm từ điển từ nguyên. Vì
quyển từ điển “quốc tế” của ông ta chưa đưa hết lên mạng nên chúng tôi
xin trích mẩu so sánh về từ “gió” trong bài của Trần Mộng Tú viết về
“Tác giả Nguyễn Hy Vọng và Nguồn gốc tiếng Việt” và chỉ lấy hai ngôn ngữ
Thái và Lào cho đỡ rườm rà:
“Thái: wa-du/wa-giu/ph-giú/ kh-glol (chặp kh-glol là bắt gió/cạo gió).
Lào: ph-gio”.
Ta không biết những dữ liệu trên đây do
ai cung cấp cho đốc tở Vọng hay ông ta lấy ở đâu ra nhưng phần tiếng
Thái thì “thập cẩm” còn phần tiếng Lào thì lại là một món ăn ế vì không
ai chịu nếm. Chúng tôi chỉ chọn hai ngôn ngữ này trong bảng so sánh để
tập trung nêu bật cái dốt của anh đốc tờ phét lác. Trong phần tiếng Thái
thì “kh-glol” là một đứa con vô thừa nhận vì ngôn ngữ này không có tổ
hợp phụ âm đầu “kh-gl” còn “wa-du”, “wa-giu”, “ph-giú” thì thực tế chỉ
là ba cách phiên âm khác nhau của “wayu” là một từ mà tiếng Thái Lan đã
mượn của tiếng Sanskrit hoặc Pali “vāyu”, có nghĩa là “gió”. Với tiếng
Lào thì “ph-gio” cũng là một kẻ vô thừa nhận vì ngôn ngữ này cũng chẳng
có tổ hợp phụ âm đầu “ph-gi”. Nhưng cái khuyết điểm “hoành tráng” nhất
của đốc tờ Vọng là ở chỗ ông ta không hề biết đến “lôm” của tiếng Thái
cũng như “lôm” của tiếng Lào, đều có nghĩa là “gió”, đều thuộc từ vựng
cơ bản của hai ngôn ngữ đó và đều đồng nguyên với “lồm” của tiếng
Tày-Nùng, “lỗm” của tiếng Thái (Tây Bắc), v.v... “Gió” trong bốn thứ
tiếng này, như đã ghi ở trên, mới đích thị là những từ đồng nguyên trong
các ngôn ngữ Tày-Thái và nếu đã làm từ điển từ đồng nguyên thì phải
dùng những từ này chứ không thề dùng “wayu” của tiếng Thái, là một từ
vay mượn ở tiếng Sanskrit hoặc Pali. Sở dĩ đốc tờ Vọng nhà ta đưa ra
những “wa-du”, “wa-giu”, “ph-giú”, “ph-gio” thì chỉ là để cho có dáng
dấp của “gió” ở trong đó mà thôi.
Tóm lại, làm từ điển từ nguyên tuyệt đối
không phải là hễ thấy có những từ cùng nghĩa và gần âm thì cứ vơ lấy mà
nhét vào trong một cái bị gọi là “cognatic dictionary”, như đốc tờ
Nguyễn Hy Vọng đã làm. Công việc này, Henri Frei cũng đã làm từ năm 1892
với quyển L’annamite, mère des langues (Tiếng An Nam, mẹ của các ngôn ngữ) trong đó “ăn thịt” của tiếng Việt đồng nguyên với tiếng Esquimau “estimantik”!
Không có nhận xét nào:
Đăng nhận xét