Ngũ
Tổ sơn ở đông bắc huyện Hoàng Mai tỉnh Hồ Bắc, đời Đường gọi là Phùng
Mậu sơn. Trên núi cổ thụ ken dày, tùng trúc rậm rạp, ở đó có Đông Sơn
tự, một thắng địa Phật giáo nổi tiếng của Trung Quốc. Đầu đời Đường,
Thiền Tông (1) đại sư “Đông Thổ Ngũ Tổ” Hoằng Nhẫn đã truyền giáo ở đây,
môn đồ có tới hơn nghìn người, được người ta gọi là “Đông Sơn pháp
môn”.
Một hôm, vào năm Đường Cao Tông
Long Sóc nguyên niên (661), có một thanh niên dáng người lam lũ, quần áo
xộc xệch, vẻ mặt mệt mỏi tới tìm gặp Đại sư Hoằng Nhẫn, Vừa gặp Đại sư,
anh đã xưng là đệ tử, cúi đầu vái lạy. Lúc đó, học trò của Hoằng Nhẫn
rất đông thuộc nhiều thế hệ đều là anh tài kiệt xuất cả. Thấy tướng mạo
của anh ta xấu xí, cử chỉ thô lậu, không ngăn được câu hỏi:
- Anh từ đâu tới đây? Đến có việc gì?
Người thanh niên đó đáp:
- Đệ tử người ở Lĩnh Nam, Tân
Châu (trị sở ở Tân Hưng, tỉnh Quảng Đông ngày nay), từ xa tới gặp sư
phụ, không xin gì, chỉ cầu học Phật.
Đại sư thấy lời lẽ anh ta có vẻ tự đại, lớn tiếng hỏi:
- Anh người Lĩnh Nam, lại người Hạt Liêu (2), làm sao học được Phật?
Người thanh niên đó điềm nhiên trả lời:
- Đất có chia nam bắc, tính Phật thì không có nam bắc, con người có cao có thấp nhưng tính Phật thì không phân chia cao thấp.
Một câu trả lời rất hay, câu hỏi
rõ là người hiểu biết, trả lời cũng thật chí lý đàng hoàng. Xem ra
người thanh niên này vẻ ngoài mộc mạc nhưng thông minh khác thường, có
tâm có trí, chỉ qua mấy câu mà cách nhìn của Đại sư Hoằng Nhẫn với anh
ta đã thay đổi. Người thanh niên này chính là Thiền Tông Lục Tổ, Huệ
năng, Tổ sư mở đầu cho Tiền Tông Trung Quốc.
Huệ Năng vốn học Lư, sinh năm
Trinh Quán Đường Thái Tông thứ 12 (638), mất vào năm Đường Huyền Tông
Khai Nguyên thứ 2 (713). Năm 3 tuổi, cha ông đã mất, gia cnahr nghèo
đói, ông phải ngày ngày đi kiếm củi nuôi mẹ. Dù không biết chữ, văn hóa
thấp, nhưng tư chất dĩnh ngộ, nghe người ta đọc kinh Kim Cương, bỗng
thấy như hiểu ra, khi trò chuyện, được biết Pháp sư Hoằng Nhẫn đang đại
khai pháp môn ở Hoàng Mai Đốn Sơn, trong lòng không khỏi hâm mộ. Người
đọc kinh đó vốn là một tín đồ nhiệt thành của Phật giáo, thấy Huệ Năng
tư chất khác thường, có lòng theo đạo, bèn quyết tâm giúp đỡ, đưa cho 10
lạng bạc. Được giúp đỡ, Huệ Năng an tâm việc nhà, chia tay mẹ lên
đường, vượt qua bao nhiêu gian khổ bái kiến Hoằng Nhẫn, tìm đường tới
với Phật Tổ.
Hoằng Nhẫn thấy Huệ Năng ăn
nói lưu loát đã có ý nhận, nhưng ngại anh ta xuất thân nghèo hèn liền
cho tới nhà bếp làm công việc chẻ củi vo gạo. Làm công việc ở nhà bếp
nhưng Huệ Năng vẫn tới nghe Hoằng Nhẫn thuyết pháp, anh ta lắng nghe
không bỏ sót chữ nào, rồi lại mê mải nghĩ suy tìm ý nghĩa lớn qua từng
lời nói nhỏ, dần cũng hiểu ra tất cả. Có lúc trầm tư suy ngẫm về sự
huyền diệt của Thiền lý mà quên cả bản thân mình và mọi thứ xung quanh.
Cuộc sống ở nhà bếp dơn điệu,
thấm thoắt 8 tháng dã trôi qua. Một hôm, Đại sư Hoằng Nhẫn triệu tập hơn
bảy trăm đệ tử, tuyên bố sẽ lựa chọn một đệ tử hiểu được đầy đủ Phật
pháp để truyền y bát, người kế thừa công việc của mình. Ông lệnh cho các
đệ tử làm một bài kệ (3) để qua đó hiểu được từng người đã am hiểu Phật
pháp như thế nào.
Một đệ tử hàng đầu của Hoằng Nhẫn là Thần Tú làm một bài kệ, đề trên towngf hành lang trong Phật đường. Bài kệ viết:
Thân thị Bồ đề thụ
Tâm như minh cảnh đài
Thời thời cần Phất thức
Vật sử nhạ trần ai.
Dịch:
Thân là cây bồ đề
Tâm như đài gương sáng
Luôn luôn phải lau chùi
Chớ để mà dính bụi.
Đọc bài kệ, các đệ tử đều khen
hay, không ai dám viết kệ. Thần Tú trong lòng cũng thấy tự đắc. Tin này
tới tai Huệ Năng. Nghe xong, Huệ Năng mỉm cười, nghĩ bài kệ này còn xa
mới tới được cái chân lý của Phật tính. Ông cũng tới hành lang phía
nam, cũng làm một bài kệ, nhờ người viết lên tường. Bài kệ viết:
Bồ đề bản vô thụ
Minh cảnh diệc phi đài
Bản lai vô nhất vật
Hà xứ hữu trần ai.
Dịch:
Bồ đề vốn chẳng cây
Gương sáng cũng chẳng đài
Xưa nay không một vật
Nơi nào dính trần ai.
Bài kệ của Thần Tú khẳng định sự
tồn tại của thân tâm mình, cho rằng tu hành cần cố gắng mới có thể dần
đạt tới cảnh giới thanh tĩnh không vương bụi trần, sẽ dần thành Phật
theo truyền thuyết. Bài kệ của Huệ Năng cho rằng thân, tâm, vạn sự vạn
vật đều là hư ảo, không có thực, chỉ có tính Phật được người người chuẩn
bị mới là sự tồn tại duy nhất, Tư tưởng này cùng với ý nghĩ Phật tính
không phân nam bắc, giàu nghèo khi mới tới Đông Sơn của ông ta mới chỉ
qua 8 tháng thầm lặng tiếp thu càng tỏ ra tư tưởng vô cùng tinh diệu. Tư
tưởng của Huệ Năng cùng với Thần Tú đều là duy tâm chủ nghĩa, nhưng
trong nhận thức, so với Thần Tú triệt để hơn trong tu hành Phật giáo,
đốn ngộ thành Phật nhanh chóng hơn.
Xuất thân nghèo hèn, lại chỉ là
một hành giả làm những công việc thấp kém ở tự viện lại có thể viết được
bài kệ cao diệu, có sức thuyết phục như vậy. Bao nhiêu là tình cảm
phức tạp: khen ngợi, kinh ngạc, ghen ghét, rồi phẫn nộ, thù hận, …bao
trùm tự viện vốn ngày ngày yên tĩnh.
Hoằng Nhẫn đọc bài kệ, biết Huệ
Năng đã nắm được cái then chốt của việc cầu Phật, có ý muốn truyền y bát
cho ông, nhưng sợ mọi người biết, cho nên cố làm ra vẻ bình thản. Nửa
đêm, Hoằng Nhẫn mới kín đáo bảo Huệ Năng vào phòng, truyền kinh thụ pháp
cho. Rồi nhắc nhở Huệ Năng, giờ đây, địa vị và thân phận của ông không
còn bình thường, có người chưa phục sẽ sinh ran guy hiểm tới tính mệnh,
rồi dặn dò ông mau mau dời khỏi Đông Sơn trở về phương nam. Ngay đêm ấy,
Huệ Năng lên đường. Đường đi trải qua nhiều nguy hiểm, trốn tránh người
truy sát, cuối cùng cũng đã về tới Lĩnh Nam, từ đó, làm ruộng đi buôn,
sống giữa những người đi săn, mai danh ẩn tích suốt 15 năm. Sau một thời
gian dài, cuộc tranh chấp ý bát đã dần lắng dịu. Huệ Năng cảm thấy thời
cơ đã chín muồi nên rat ay hằng pháp. Bây giờ ông mới tới Nam Hải (nay ở
gần thành phố Quảng Châu), môn khách của Pháp sư Ấn Tông nghe giảng.
Một hôm, Ấn Tông hỏi mọi người:
- Các người xem thử, trên đỉnh cái cột cờ là cái cờ, khi gió thổi nó có lay động không?
Mọi người ý kiến khác nhau, bàn
luận sôi nổi, có người nói lá cờ có lay động, có người nói không phải lá
cờ lay động mà gió lay động. Đang ngồi cùng mọi người, Huệ Năng bỗng
đứng lên, nói lớn:
- Pháp sư! Không phải gió động, cũng không phải lá cờ lay động, chỉ là do động ở mọi người.
Nói xong, mọi người đều ngạc
nhiên. Ấn Tông lập tức biết Phật pháp mình đã tu dưỡng không bằng Huệ
Năng bèn thỉnh giáo Huệ Năng, mới biết Huệ Năng chính là người đang sở
hữu y bát của Phật pháp. Không lâu sau, Ấn Tông đích thân cùng các tín
đồ tới nơi ở của Huệ Năng để Huệ năng cắt tóc thụ giới. Như vậy, Huệ
Năng mới chính thức xuất gia, trở thành một tăng nhân.
Sauk hi Ấn Tông để Huệ Năng cắt
tóc, nhận Huệ Năng làm thầy, tự nhận là môn đệ. Từ đó về sau< huệ
Năng thường ngồi thuyết pháp dưới gốc cây bồ đề. Không lâu sau, ông lại
tới Thiều Quan, Tào Khê thuyết pháp cho mọi người, tu sửa tự viện. Sau
mười năm, tiếng tăm truyền khắp, học trò cơ tới hơn mười vạn người.
Những hoạt động của Huệ Năng bắt
rễ trong dân gian. Tư tưởng học thuyết của ông thể hiện trong “Đàn
kinh” mở ra cục diện hoàn toàn mới mẻ trong Phật giáo Trung Quốc. Giáo
phái này chính là phái Thiền Tông Trung Quốc luôn luôn cường thịnh.
Chú thích:
(1) Thiền Tông: Do tu hành
bằng Thiền định là chính mà có tên. Lại vì chủ yếu dùng phép tham cứu,
“thủ tâm”, “quan tâm” nên cũng gọi “Phật tâm tông”.
(2) Hạt Liêu là cách gọi của
người Trung Nguyên với người dân tộc thiểu số ở phía nam. Đó là dân tộc
ngày nay gọi là dân tộc Choang.
(3) Kệ ngữ: cũng gọi kệ tụng,
những câu thơ được các tín đồ Phật giáo đọc lên. Với Thiền Tông, kệ ngữ
dần trở thành lời vấn đáp, có ảnh hưởng tới lý học thời Tống Minh.
(4) “Đàn kinh”: kinh điển Thiền Tông, ghi lại sự tích và lời nói của Huệ Năng
Không có nhận xét nào:
Đăng nhận xét