Dai Chung la su suy ngam cua toi ve cuoc doi, xa hoi, nhan sinh
CHUYỆN ÍT BIẾT 81
Nhận đường liên kết
Facebook
X
Pinterest
Email
Ứng dụng khác
-
(ĐC sưu tầm trên NET)
SỰ THẬT VỀ CHIẾC KHẨU TRANG HOẠT TÍNH
Lịch sử chiếc khẩu trang y tế
Thứ Hai, ngày 16/03/2020 16:00 PM (GMT+7)
Ngược dòng
lịch sử, chiếc khẩu trang đầu tiên ra đời năm 1619, khi bệnh dịch hạch
giết chết gần nửa triệu người ở Pháp, Italy, Đức, Tây Ban Nha....
Trong những ngày mà cả thế giới đang chao đảo vì dịch viêm đường hô
hấp cấp, lây truyền do dịch Covid-19 thì vật dụng không thể thiếu mỗi
khi ra đường hoặc lui tới những chỗ đông người chính là chiếc khẩu
trang.
Ngược dòng lịch sử, chiếc khẩu trang đầu tiên ra đời năm 1619, khi
bệnh dịch hạch giết chết gần nửa triệu người ở Pháp, Italy, Đức, Tây Ban
Nha....
Nói một cách chính xác, chiếc khẩu trang có lẽ đã xuất hiện từ lâu
lắm. Dựa vào những ghi chép của nhà thám hiểm người Italy là Marco Polo,
khi đến Trung Quốc hồi thế kỷ 13 rồi khi được một vị quan lớn nhà
Nguyên mời dự yến tiệc, Marco Polo thấy những người hầu đều đeo quanh
miệng một mảnh vải lụa mà theo giải thích là nhằm ngăn không cho hơi thở
của họ "ám" vào thức ăn.
Tuy nhiên, loại "khẩu trang" này chỉ xuất hiện ở những nơi quyền quý, và hoàn toàn không có mục đích phòng ngừa bệnh tật.
Mãi đến mùa hè năm 1619, lúc những bệnh nhân đầu tiên mắc bệnh dịch
hạch ở Pháp rồi sau đó nhanh chóng lan sang các quốc gia láng giềng như
Italy, Tây Ban Nha, Đức..., thì do y học chưa hiểu biết tường tận về
nguyên nhân gây bệnh cũng như cơ chế lây truyền, mà chỉ biết rằng nó
phát xuất từ loài chuột đen.
Vì vậy, người ta gọi nó là "cái chết đen". Tất cả bệnh nhân bị nhiễm
đều chết vì không có thuốc chữa nên ý tưởng về việc phòng ngừa xuất
hiện, đi đầu là bác sĩ Charles de Lorme bởi lẽ khi đó người ta chỉ biết
giết chuột hoặc tránh xa loài chuột!
Thời điểm "cái chết đen" khởi phát, bác sĩ Charles de Lorme làm việc
tại Bệnh viện St Louis, Paris, Pháp. Nhận thấy khá nhiều đồng nghiệp của
ông bị lây khi tham gia những ca mổ xác để tìm hiểu lý do dẫn đến tử
vong nhưng do y học chưa phát triển nên Charles de Lorme nghĩ rằng cái
mùi "tử khí" bốc ra từ xác chết là nguyên nhân, trong lúc thực tế thì
các bác sĩ bị nhiễm đều là những người đã tiếp xúc với xác chết ngay khi
họ vừa chết được 1, 2 tiếng đồng hồ, xác chưa bị phân hủy.
Khẩu trang mỏ chim năm 1619
Vì tin rằng cái mùi "tử khí" là thủ phạm nên theo Charles de Lorme,
cần phải cách ly cái mũi của bác sĩ khỏi "tử khí". Sau nhiều ngày nghiên
cứu, Charles de Lorme cho ra đời chiếc khẩu trang đầu tiên của nhân
loại. Nó làm bằng những thanh gỗ thông vót mỏng, uốn thành hình cái mỏ
của một con chim.
Bên ngoài mỏ, Charles de Lorme bọc vải lanh rồi cho vào trong mỏ một
số thảo mộc tỏa ra mùi thơm. Khi tiến hành phẫu thuật tử thi, bác sĩ đeo
khẩu trang "mỏ chim" cùng với một cặp kính, gọng làm bằng đồng rồi mặc
một chiếc áo choàng dài tới gót chân, có mũ trùm kín đầu.
Thế nhưng hiện tượng nhiễm bệnh vẫn không chấm dứt bởi lẽ mãi về sau
này, người ta mới hiểu nguyên nhân lây truyền bệnh dịch hạch phát xuất
từ loài bọ chét, sống bằng cách hút máu động vật lẫn con người nên khi
bệnh nhân chết, máu đông lại, cơ thể không còn nóng, bọ chét phải tìm
một nguồn nuôi dưỡng khác.
Bác sĩ mổ tử thi khi ấy chính là vật chủ bởi lẽ họ không mang găng
tay, áo choàng không ngăn được những con bọ chét tìm đủ mọi cách để bám
vào. Chiếc khẩu trang "mỏ chim" cũng vì thế mà lặng lẽ biến mất.
Đến đầu thế kỷ 17, bác sĩ Collin Mayer, người Mỹ, làm việc tại bệnh
viện St George, bang Alabama nghĩ ra một loại khẩu trang khác. Lúc ấy,
khá nhiều nô lệ da đen làm việc tại các đồn điền trồng cây bông vải
trong bang mắc bệnh thủy đậu. Sau nhiều ngày theo dõi, bác sĩ Collin
nhận thấy bệnh lây khi người bệnh ho, hắt hơi hoặc nói chuyện. Vì thế,
ông may một cái túi bằng vải, có khoét 2 lỗ cho 2 con mắt.
Mỗi khi thăm khám, ông trùm cái "khẩu trang" này vào đầu cùng với một
cặp kính. Kết quả là bác sĩ Collin không nhiễm bệnh nhưng con số nô lệ
da đen bị nhiễm vẫn tăng lên mà nguyên nhân là bệnh thủy đậu - ngoài lây
theo đường hô hấp - nó còn lây qua việc sử dụng chung những đồ dùng cá
nhân, hoặc ăn uống chung với người đã nhiễm bệnh.
Bước sang thế kỷ 19 - năm 1827 - Fernandez Carlos, bác sĩ người Tây
Ban Nha thiết kế chiếc khẩu trang dựa theo hình dáng của tấm chàng mạng
mà phụ nữ Arab dùng để che mặt. Đó là một miếng vải hình chữ nhật, ở
phần trên có dây buộc vòng quanh đầu còn phần dưới may liền vào áo
choàng.
Khẩu trang của bác sĩ hồi cuối thế kỷ 19
Tuy nhiên, lúc nhiều bác sĩ nhiễm lao trong quá trình thăm khám người
bệnh thì loại khẩu trang này bị hủy bỏ vì y học khi ấy tin rằng vi
trùng lao có thể đi xuyên qua vải, mặc dù nguyên nhân thực tế là do khẩu
trang không che kín được mũi và miệng. Hơn nữa, sau khi thăm khám, áo
choàng cũng không được giặt ngay mà thường thì chỉ được giặt sau 2 hoặc 3
ngày.
Năm 1897, phát triển từ mẫu khẩu trang của bác sĩ Fernandez Carlos,
nhà vi khuẩn học người Đức là Carl Flugge và bác sĩ phẫu thuật người
Pháp Paul Berger thay miếng vải bằng miếng băng gạc hình chữ nhật với 6
lớp. Nhưng giống như chiếc khẩu trang của bác sĩ Fernandez Carlos, loại
khẩu trang của Carl Flugge và Paul Berger cũng có phần trên buộc vòng
qua đầu còn phần dưới may dính vào áo choàng. Vì vậy, tác dụng ngăn ngừa
nhiễm khuẩn của nó không hiệu quả lắm.
Năm 1899, chiếc khẩu trang tiến thêm một bước nhưng lần này đơn giản
hơn: Mỗi khi khám bệnh, các bác sĩ người Mỹ dùng một miếng băng gạc dài
khoảng 40cm, ngang 10cm, chính giữa có thêm 4 lớp gạc, cuốn quanh miệng
và mũi rồi buộc lại ở phía sau gáy. Sử dụng xong, nó được mang đi giặt
ngay nhưng hầu hết bác sĩ đều cho rằng nó gây khó thở nếu phải đeo nó
trong những ca khám bệnh kéo dài. Tuy vậy, ở Trung Quốc, Singapore,
Malaysia và ngay cả ở Australia, nó vẫn được sử dụng.
Cho đến cuối thế kỷ 19, khẩu trang vẫn được mặc định là chỉ dành
riêng cho ngành y nhưng trong 2 năm 1918-1919, đại dịch cúm Tây Ban Nha
lây nhiễm cho 500 triệu người (1/4 nhân loại trên toàn Trái đất lúc ấy),
giết chết khoảng 50 triệu người, phần lớn là người trẻ, tuổi từ 20-40,
những người tưởng như có hệ miễn dịch hoàn hảo nhất.
Biểu hiện của bệnh là xuất huyết ở mũi, dạ dày, ruột, sau đó xuất
huyết và tràn dịch màng phổi khiến người bệnh "chết đuối" bởi chính chất
lỏng bên trong cơ thể mình thì quan niệm về chiếc khẩu trang mới bắt
đầu thay đổi.
Khi ấy, với sự tiến bộ của y học, các bác sĩ biết rằng bệnh cúm gây
ra bởi virus. Bệnh nhân khi ho sẽ truyền bệnh cho người khác bởi những
giọt nước bọt nhỏ li ti bắn ra từ miệng nên ngoài việc cách ly những
người đã nhiễm bệnh, thì cần phải có biện pháp ngăn ngừa những người
đang mang mầm bệnh nhưng chưa bộc phát.
Vì thế, các bác sĩ Anh quốc chế ra loại khẩu trang chỉ che kín phần
miệng. Nó gồm một cuộn băng gạc, buộc túm 2 đầu rồi buộc dây vòng qua
gáy. Tất cả mọi người dù nhiễm bệnh hay không, mỗi khi ra đường đều
phải đeo. Đó cũng là chiếc khẩu trang phổ thông đại chúng đầu tiên.
Người dân London gọi nó một cách khôi hài là "xúc xích trắng" vì nhìn
nó giống như chiếc xúc xích, nhất là nó lại nằm ở ngang miệng. Cho đến
đầu năm 1919, cả châu Âu và nước Mỹ hầu như đều sử dụng loại khẩu trang
"xúc xích" này.
Khẩu trang ngừa cúm chỉ che phần miệng, năm 1918
Thế nhưng, chỉ một thời gian ngắn, các bác sĩ Mỹ nhận ra rằng mỗi khi
muốn ho hay khạc nhổ, người ta phải kéo cái "xúc xích" ra khỏi miệng và
như vậy, nguy cơ lây truyền vẫn hiện hữu. Bên cạnh đó, sự hắt hơi cũng
có thể phát tán mầm bệnh nên lần này, người Mỹ cho ra đời chiếc khẩu
trang chỉ che kín phần mũi!
Lúc bấy giờ, khẩu trang may bằng hai lớp vải cotton, còn màu sắc thì
tùy theo ý thích của người dùng. Nó được phủ một lớp hồ ở mặt ngoài để
tạo hình chóp nón và có độ cứng. Nó có 4 sợi dây ở 2 bên để đeo vòng qua
tai.
Khẩu trang che mũi, năm 1919
Điều bất tiện là khi giặt để tái sử dụng, lớp hồ trôi hết nên phải hồ
lại nhưng không phải nhà ai cũng có sẵn hồ và biết cách hồ. Vì thế, cứ
vài ngày một lần, họ gom tất cả khẩu trang của những người trong gia
đình rồi mang ra những cửa hàng chuyên "hồ khẩu trang", chưa kể nếu gặp
nước hoặc đi ngoài mưa, hồ tan ra gây dính, nhớp, bụi bặm bám đầy vào
lớp hồ ướt.
Năm 1930, khi ngành nhựa phát triển, khẩu trang được làm bằng nhựa
trong. Suốt một thập niên, ngoài những người ở ngành y thì loại khẩu
trang này rất phổ biến trong giới đi xe phân khối lớn. Nó vừa ngăn được
bụi, lại vừa không làm giảm tầm nhìn, dễ dàng chùi rửa nhưng đeo vào chỉ
khoảng 15 phút, người đeo sẽ thấy khó thở vì nó quá kín.
Khẩu trang nhựa năm 1935
Và bởi vì lớp nhựa rất mỏng, dễ bị biến dạng khi đeo nên nó còn có
một chiếc đai kim loại ràng quanh khiến nó khá nặng nề. Để cải tiến, các
nhà chế tạo để hở phần dưới cằm cho không khí dễ dàng lưu thông nhưng
nó lại hạn chế việc ngăn ngừa vi khuẩn xâm nhập qua đường hô hấp
Khi Thế chiến II bùng nổ, khẩu trang phổ biến đến nỗi ở London, Anh
quốc, cứ 3 người thì có 1 người đeo khẩu trang khi ra đường. Do bị máy
bay Đức Quốc xã ném bom, người dân London đeo khẩu trang vừa để ngừa bụi
bốc ra từ những căn nhà bị trúng bom, vừa để giảm bớt cái mùi hôi thối
của những tử thi chôn vùi trong những đống đổ nát.
Lúc ấy, nó được may 2 lớp bằng vải bông. Riêng quân đội Mỹ, khẩu
trang y tế may 4 lớp với 4 loại vải khác nhau, gồm lụa, lanh, gai và
cotton trong lúc ở Đông Nam Á, khẩu trang của quân đội phát xít Nhật tại
những vùng do họ chiếm đóng vẫn chỉ là một miếng vải kaki hình chữ
nhật, buộc quanh miệng.
Năm 1947, vải không dệt ra đời. Đây là dạng vải cấu tạo từ nhựa tổng
hợp với một số thành phần các chất khác nhau tùy theo mục đích sử dụng.
Nó được kéo dài thành từng sợi nhỏ nhưng không được dệt thành vải mà nó
liên kết với nhau bằng hóa chất (chất dính) hoặc nhiệt độ (ép nóng) để
tạo ra loại vải nhẹ và xốp. Từ loại vải không dệt này, chiếc khẩu trang y
tế có cấu tạo và hình dạng như ngày nay.
Năm 1995, khi nhà ga tàu điện ngầm ở Tokyo bị khủng bố bằng chất độc
sarin khiến 13 người thiệt mạng và 6.000 người nhiễm độc thì hãng sản
xuất khẩu trang U-Mask, Mỹ cho ra đời chiếc khẩu trang chống hơi độc. Nó
được làm bằng nhựa tổng hợp có gắn thêm bộ lọc không khí. Chỉ trong 1
tháng, U-Mask đã bán được 1,2 triệu chiếc khẩu trang loại này.
Hiện tại, có khá nhiều loại khẩu trang đang lưu hành khắp thế giới,
từ loại kháng virus, kháng khuẩn, kháng bụi đến loại kháng bụi mịn và
thậm chí kháng cả bụi phóng xạ, hầu hết được làm từ vải không dệt. Trong
những ngày mà cả thế giới đang quay cuồng vì dịch viêm đường hô hấp cấp
Covid-19 gây ra thì khẩu trang là mặt hàng bán chạy nhất.
Tuy nhiên, đối với loại khẩu trang y tế, thay vì chỉ dùng 1 lần theo
khuyến cáo thì nhiều người dùng đi dùng lại nhiều lần, sau mỗi lần dùng
lại treo trên móc xe, hoặc bỏ vào túi quần, áo, bỏ trong túi xách nên
điều này đã góp phần làm lây lan dịch bệnh.
Dịch SARS, cúm gia cầm, Ebola
và gần đây nhất là virus corona cùng sự ô nhiễm không khí, bụi mịn gia
tăng khiến khẩu trang trở thành vật dụng không thể thiếu khi ra đường.
Theo tác giả Charles A. Rockwood và Don O'Donoghue của nghiên cứu The Surgical Mask: Its Development, Usage, and Efficiency,
chiếc mặt nạ y tế - phiên bản đầu tiên của khẩu trang ngày nay - là ý
tưởng của nhà vi khẩu học người Đức Carl Flugge và được phát triển bởi
bác sĩ phẫu thuật người Pháp Paul Berger vào khoảng năm 1897-1899. Tiền
thân của chiếc khẩu trang là một miếng gạc hình chữ nhật gồm 6 lớp gạc,
được khâu ở mép dưới với phần tạp dề vải lanh đã khử trùng và đường viền
phía trên giữ sát gốc mũi bằng dây buộc sau cổ. Ảnh: Axios.
Khẩu
trang trong những năm đầu thế kỷ 20 được sử dụng chủ yếu trong lĩnh vực
y tế, để tránh lây lan các bệnh truyền nhiễm giữa bệnh nhân và bác sĩ.
Trong quá trình phát triển, khẩu trang ngày càng được giới y khoa,
nghiên cứu cải thiện về hình dáng, chức năng và dần trở thành vật dụng
không thể thiếu khi ra đường. Ảnh: New York Post.
Theo trang Quartz,
khẩu trang bắt đầu du nhập và phổ biến ở các nước châu Á vào những năm
đầu thế kỷ 20 khi một đại dịch cúm đã khiến 20-40 triệu người tử vong
trên khắp thế giới, trong đó Ấn Độ chịu hậu quả nặng nề khi mất hơn 5%
dân số. Ảnh: AP.
Ngày
nay khẩu trang thông dụng ở hầu hết mọi quốc gia song đặc biệt phổ biến
ở các nước Đông Á như Nhật Bản, Hàn Quốc và Trung Quốc. Điều này được
lý giải bởi các đại dịch từng bùng phát ở khu vực này cũng như bầu không
khí ô nhiễm và quan niệm của người phương Đông - hơi thở là yếu tố
quyết định sức khỏe. Ảnh: Getty.
Dịch
SARS bùng phát năm 2002-2003, cúm gia cầm năm 2006-2009, Ebola năm 2014
và gần đây nhất là virus corona với tâm dịch là thành phố Vũ Hán (Trung
Quốc) cùng sự ô nhiễm không khí, bụi mịn gia tăng khiến khẩu trang trở
thành vật dụng không thể thiếu với người dân tại các nơi công cộng. Ảnh:
MEO.
Không
chỉ là vật dụng chống lại ô nhiễm không khí và bệnh tật, khẩu trang
ngày nay còn là một item thời trang với giới trẻ. Khẩu trang với muôn
kích cỡ, kiểu dáng với đủ các loại họa tiết lạ mắt, thời thượng đã được
giới thiệu trên các sàn diễn thời trang danh tiếng tại Trung Quốc, Nhật
Bản trong một vài năm trở lại đây. Ảnh: Tokyo Fashion, @kaya127s.
Các
nghiên cứu còn chỉ ra rằng, với nhiều thanh thiếu niên châu Á, khẩu
trang còn có vai trò như "tường lửa xã hội". Nhiều người sử dụng khẩu
trang, đội mủ, đeo tai nghe ở nơi công cộng như một dấu hiệu tránh né
các giao tiếp xã hội với người xung quanh. Ảnh: pollutionairmask.
Giữa đại dịch Covid-19, nhớ người bác sĩ đầu tiên đề cao chuyện... rửa tay
Dân trí Hôm nay, công cụ tìm
kiếm Google tôn vinh bác sĩ người Hungary - Ignaz Semmelweis (1818 -
1865), ông được xem là “cha đẻ của kiểm soát lây nhiễm”.
Giữa đại dịch Covid-19, nhớ về người bác sĩ đầu tiên đề cao chuyện... rửa tay
Ngày nay, rửa tay sạch sẽ là một trong những phương cách đơn giản mà
hiệu quả nhất để ngăn chặn sự lây lan của các loại bệnh tật, đó là điều
mà tất cả các chuyên gia y tế trên khắp thế giới, bao gồm cả Tổ chức Y
tế Thế giới (WHO), đang nhấn mạnh trong những ngày này một cách thường
xuyên, khi toàn thế giới đang cùng chiến đấu với dịch bệnh Covid-19.
Trong khi dịch Covid-19 vẫn đang tiếp tục gây ảnh hưởng tới cuộc sống
của người dân trên khắp thế giới, công cụ tìm kiếm Google đã nhấn mạnh
tầm quan trọng của việc rửa tay thông qua đoạn clip hoạt họa dành để tôn
vinh sự nghiệp của bác sĩ Ignaz Semmelweis, người vốn được biết tới là
“cha đẻ của kiểm soát lây nhiễm”.
Bác sĩ Ignaz Semmelweis được giới y khoa nhìn nhận là người đầu tiên
phát hiện ra những lợi ích y tế quan trọng của việc rửa tay.
Vào ngày 20/3/1847, ông Ignaz Semmelweis đã khẳng định tầm quan trọng
của việc rửa tay sạch sẽ khi ông được bổ nhiệm làm người đứng đầu khoa
sản của Bệnh viện Đa khoa Vienna, ông bắt đầu yêu cầu tất cả các y bác
sĩ, nhân viên y tế trong khoa phải khử khuẩn hai bàn tay một cách thường
xuyên bằng chất tẩy rửa y tế.
Trước khi ông được bổ nhiệm, các sản phụ có tỷ lệ tử vong cao vì họ
thường bị nhiễm trùng sau sinh nở, nhưng người ta không nhìn nhận thấu
đáo nguyên nhân dẫn tới việc này. Sau khi tự tiến hành những hoạt động
điều tra, ông Semmelweis đã nhận ra rằng nguyên nhân là bởi các bác sĩ
đã mang những mầm bệnh trên bàn tay của họ khi tiếp xúc với các sản phụ.
Nhấn để phóng to ảnh
Bác sĩ người Hungary - Ignaz Semmelweis (1818 - 1865)
Ngay sau khi bác sĩ Semmelweis yêu cầu các y bác sĩ trong khoa phải
thường xuyên làm vệ sinh tay, tỷ lệ tử vong của các sản phụ đã giảm từ
18,27% xuống còn 1,27%, và trong khoảng thời gian từ tháng 3 tới tháng 8
năm 1848, không có sản phụ nào qua đời trong khi lưu lại khoa sản do
bác sĩ Semmelweis đứng đầu.
Mặc dù có những thành tựu như vậy, nhưng nhiều đồng nghiệp của bác sĩ
Semmelweis trong giới y khoa vẫn phủ nhận ý tưởng của ông, không coi đó
là nghiêm túc.
Bác sĩ Semmelweis dần cảm thấy “tuyệt vọng” vì những người đồng
nghiệp của mình, những người mà ông không thể nào thuyết phục họ thực sự
tin tưởng vào tầm quan trọng của việc giữ gìn vệ sinh sạch sẽ trong
lĩnh vực y tế, của đôi bàn tay sạch mầm bệnh của các y bác sĩ khi tiếp
xúc với bệnh nhân, cuối cùng, ông rơi vào bất ổn tâm lý và phải nhập
bệnh viện tâm thần, rồi qua đời tại đây.
Chỉ tới sau khi ông Semmelweis đã qua đời, những quan niệm của ông về
vấn đề vệ sinh trong hoạt động y tế mới được khẳng định, lúc này, các y
bác sĩ trên khắp thế giới đã bắt đầu tiếp cận và chấp nhận rộng rãi
những lý thuyết về vi khuẩn, mầm bệnh...
Bên cạnh việc tôn vinh sự nghiệp của bác sĩ Semmelweis, đoạn clip
hoạt họa của Google cũng nâng cao nhận thức cho người dân trên khắp thế
giới về cách thức chuẩn xác để rửa tay sạch - một trong những biện pháp
hiệu quả nhất trong việc ngăn chặn lây lan dịch bệnh. Điều này được
Google thực hiện đúng thời điểm khi dịch bệnh Covid-19 đang lây lan trên
toàn cầu.
(ĐC sưu tầm trên NET) Oscar Là Ai? Câu Chuyện Về Cuộc Đời Bi Kịch Của “Thiên Tài Bị Xã Hội Vùi Dập” Ít ai biết rằng, giải thưởng danh giá của làng điện ảnh – Oscar - được lấy theo tên của nhà văn nổi tiếng Oscar Wilde. Năm 1854, khi rửa tội cho con trai thứ hai nhà Wilde, Đức cha Prideaux Fox không hề biết rằng cậu bé này rồi sẽ là “thiên tài bất thường” của Ireland. Về sau, Oscar Wilde đã trở thành một trong những nhân vật đặc biệt nổi bật của giới văn chương, người luôn ở giữa tôn vinh và hạ nhục, giữa cái đẹp và sự tăm tối, giữa sa hoa và khốn cùng. Không nhiều người có thể trả lời câu hỏi: " Oscar là ai?" Quang Thạch | 01/03/2016 10:07 7 Theo một video phỏng vấn ngay trước thềm Oscar 2016, các diễn viên tới dự giải Oscar cũng không thể trả lời câ...
(ĐC sưu tầm trên NET) Thời sự quốc tế sáng 10/5/2018 TIN TỨC VIỆT NAM MỚI NHẤT TRONG NGÀY 10/5/2018 60 Giây Chiều - Ngày 09/05/2018 - Tin Tức Mới Nhất An ninh ngày mới ngày 09.05.2018 - Tin tức cập nhật TRỰC TIẾP THỜI SỰ BIỂN ĐÔNG 10/05 Cận cảnh Tàu Việt Nam trong diễn tập Komodo 2018 Hai Chị Em - Trung Hậu và Thuỵ Vân Hội nghị Trung ương 7: Sẽ có quyết sách dẹp vấn nạn "cả họ làm quan" (TTXVN/Vietnam+) 09/05/2018 21:06 GMT+7 Bản in Đại biểu dự hội nghị. (Ảnh: Phương Hoa/TTXVN) Hội nghị lần thứ 7, Ban Chấp hành Trung ương Đảng khóa XII, diễn ra từ ngày 7-12/5, tập trung thảo luận, cho ý kiến về các nội dung: xây dựng đội ngũ cán bộ các cấp, nhất là cấp chiến lược đủ phẩm chất, năng lực và uy tín, ngang tầm nhiệm vụ; cải cách chính sách tiền lương đối với cán bộ, công chức, viên chức, lực lượng vũ trang và người lao động trong các doanh nghiệp; cải cách chính sách bảo hiểm xã hội; và một ...
(ĐC sưu tầm trên NET) Giang hồ Sài Gòn trước 1975: Trùm du đãng Mã Thầu Dậu Mã Thầu Dậu nhận tất cả đơn đặt hàng giải quyết ân oán trong đời thường và trong làm ăn. "Tiền nào của ấy" nên mỗi dịch vụ đều có mức giá khác nhau. Trùm du đãng một vùng rộng lớn không hành xử như đám du đãng cắc ké. Chợ Lớn có trùm du đãng ba Tàu Mã Thầu Dậu (Con ngựa đầu gà) nổi tiếng với vai trò đâm thuê chém mướn. Trùm bảo kê Mã Thầu Dậu xuất thân từ một đứa bé con nhà người Hoa gốc Quảng Đông nghèo. Tuổi thơ Mã Thầu Dậu trải qua nhiều cơ cực, từ bửa củi thuê, bưng cà phê, bưng hủ tiếu đến cả rửa chén bát thuê. Mã Thầu Dậu khởi nghiệp trùm du đãng khét tiếng trên hè phố La Kai (đường Nguyễn Tri Phương, quận 5 ngày nay). Hắn nổi danh nhờ những vụ trừ khử đám du thủ du thực cho các chủ tiệm buôn giàu có người Hoa và dần đi theo con đường đâm thuê chém mướn chuyên nghiệp. Khu vực chợ Lớn xưa Băng du đãng Mã Thầu Dậu h...
Nhận xét
Đăng nhận xét