TT&HĐ III - 32/#
CHƯƠNG XI (XXXII): ANH HÙNG
Đọc thêm tại: http://www.tudiendanhngon.vn/tabid/87/strcats/111/sw/a/charmode/true/default.aspx © TuDienDanhNgon.vn
Đọc thêm tại: http://www.tudiendanhngon.vn/tabid/87/strcats/111/sw/a/charmode/true/default.aspx © TuDienDanhNgon.vn
-Albert Einstein
"Lòng yêu nước và sự đoàn kết của nhân dân là một lực lượng vô cùng to lớn, không ai thắng nổi. Nhờ lực lượng ấy mà tổ tiên ta đã đánh thắng quân Nguyên, quân Minh, đã giữ vững quyền tự do, tự chủ. Nhờ lực lượng ấy mà chúng ta làm cách mạng thành công giành được độc lập. Nhờ lực lượng ấy mà sức kháng chiến của ta càng ngày càng mạnh. Nhờ lực lượng ấy mà quân và dân ta quyết chịu đựng muôn nỗi khó khăn, thiếu thốn, đói khổ, tang tóc, quyết một lòng đánh tan quân giặc cướp nước."
Hồ Chí Minh
"Thà làm dân một nước độc lập còn hơn làm vua một nước nô lệ"
Phạm Khắc Hòe
(Tiếp theo)
Quân cảnh Mỹ nhảy khỏi xe jeep khi bị du kích cách mạng bắn tỉa ở gần căn cứ Đà Nẵng vào ngày 30/1/1968
sau là quốc kỳ của Cộng hòa miền Nam Việt Nam
Thua kém quân địch về
nhiều mặt, đặc biệt là trang bị vũ khí, nhưng quân dân Việt Nam dưới sự
lãnh đạo sáng suốt của Đảng và Chủ tịch Hồ Chí Minh đã giành được nhiều
chiến thắng oanh liệt."Chúng tôi bắt buộc phải kháng cự lại lũ xâm lăng ấy để bảo vệ gia đình, Tổ quốc chúng tôi..Miền Nam là máu của máu Việt Nam, là thịt của thịt Việt Nam...Nước Việt Nam là một, dân tộc Việt Nam là một. Sông có thể cạn núi có thể mòn, song chân lý ấy không bao giờ thay đổi”
Ngoại trưởng Xuân Thủy, trưởng phái đoàn Việt Nam Dân chủ Cộng hòa tại Hội nghị Paris về Việt Nam tuyên bố:
| "Mỹ không tôn trọng quyền tự quyết của nhân dân miền Nam Việt Nam mà trái lại đã tiến hành có hệ thống một chính sách can thiệp, xâm lược và chiến tranh, chà đạp lên các quyền đó" |
Dáng đi thất thểu, ngủ gục ngay trên đống đổ nát, nét mặt mệt mỏi, đau đớn... là những hình ảnh thường gặp ở lính Mỹ sau những trận chiến tại chiến trường Việt Nam.
Cuộc chiến tranh này được nhiều người phân đoạn theo các cách khác nhau: Người Mỹ thường quan niệm "Chiến tranh Việt Nam" được tính từ khi họ trực tiếp tham chiến trên bộ đến khi chính quyền Việt Nam Cộng hòa đầu hàng (từ 1965 đến 1975). Nhưng quan điểm chung và chính thống hiện nay của chính phủ Việt Nam vẫn coi Chiến tranh Việt Nam được tính từ 1954 hoặc 1955 đến 1975, vì theo họ nguồn gốc của chiến tranh bắt nguồn từ các kế hoạch can thiệp của Hoa Kỳ vào Việt Nam, vốn bắt đầu diễn ra ngay từ năm 1954 (ngày chiến thắng Điện Biên Phủ, năm kết thúc chiến tranh Đông Dương). Theo tài liệu của Bộ Quốc phòng Mỹ, Chiến tranh Việt Nam được Mỹ coi là bắt đầu từ ngày 1/11/1955 khi Nhóm chuyên gia hỗ trợ quân sự Mỹ (U.S. Military Assistance Advisory Group - MAAG) tại Việt Nam được thành lập.
Ngày 28 tháng 2 năm 1946, Chủ tịch Hồ Chí Minh đã gửi thư cho Tổng thống Mỹ Harry Truman kêu gọi Mỹ can thiệp khẩn cấp để ủng hộ nền độc lập non trẻ của Việt Nam, nhưng không được hồi đáp vì Mỹ xem Hồ Chí Minh là "tay sai của Quốc tế cộng sản" nên phớt lờ lời kêu gọi hỗ trợ nền độc lập của Việt Nam. Cuối tháng 9 năm 1946, Mỹ rút tất cả các nhân viên tình báo tại Việt Nam về nước, chấm dứt liên hệ với chính phủ Hồ Chí Minh.

Một phi công Mỹ quan sát máy bay ném bom napalm oanh tạc các địa điểm trên lãnh thổ Việt Nam. Mục đích của những cuộc ném bom là nhằm làm rụng lá, chết cây để dễ dàng phát hiện ra đối phương trong rừng sâu.

Bác sĩ Joseph Wolfe (ở giữa bức ảnh) điều trị cho một binh sĩ bị thương tại một bệnh viện dã chiến dưới lòng đất thuộc căn cứ hải quân Mỹ đóng tại Khe Sanh hồi tháng 3/1968.

Hai cha con bị nghi là "Việt cộng" bị dẫn về trụ sở.
Mặc dù bị thương đến mức phải băng kín một mắt nhưng binh sĩ Thomas Cole vẫn giúp đỡ đồng đội mình là trung sĩ Harrison Pell.

Binh lính Sài Gòn thực hiện cuộc đổ bộ quy mô lớn ở khu vực đồng bằng sông Cửu Long và đặt một số thiết bị trên thuyền. Họ băng qua những cánh đồng ngập nước, có nơi nước sâu ngập đến nửa người để tìm diệt những chiến sĩ Giải phóng.

Những người dân sống sót sau cuộc tấn công kéo dài 2 ngày đêm của quân đội Việt Nam Cộng hoà nhằm chiếm chốt Đồng Xoài sợ hãi co cụm lại với nhau. Ảnh chụp tháng 6/1965.

Trung tá quân đội Mỹ George Eyster được đặt nằm lên cáng sau khi trúng đạn của Quân đội Việt Nam. Ảnh chụp ngày 16/1/1966.

Một người phụ nữ Việt Nam bế trên tay cậu con nhỏ và kéo theo một cô con gái, vội vàng chạy ra khỏi ngôi nhà đang bốc cháy. Ảnh chụp tháng 7/1963.

Lính Mỹ cho một đồng đội bị thương uống nước. Ảnh chụp ngày 2/4/1967.

Lính Mỹ bị thương được điều trị ngay tại chiến trường. Ảnh chụp ngày 2/4/1967.

Binh sĩ thuộc Tiểu đoàn 1, đơn vị Bộ binh số 28 Mỹ, bò đi tìm nơi trú ẩn khi bị quân đội Việt Nam tấn công bất ngờ khi đang ngồi ăn trưa. Ảnh chụp ngày 9/1/1966.

Thuỷ quân lục chiến Mỹ nghe nhịp tim của một đồng đội đang hấp hối sau khi bị thương vào đầu. Ảnh chụp ngày 19/9/1966.

Thuỷ quân lục chiến Mỹ chạy tán loạn khi chiếc trực thăng CH-46 bị bắn hạ và phát nổ. Ảnh chụp ngày 15/7/1966.

Lính bộ binh Mỹ cầu nguyện trong một khu rừng Việt Nam trong lễ tưởng niệm đồng đội chết trong cuộc tấn công đồn điền cao su Michelin. Ảnh chụp ngày 9/10/1965.

Lính bộ binh Mỹ mang một đứa trẻ đang khóc đi khỏi một ngôi làng sau khi ném một quả lựu đạn vào một hầm trú ẩn không có người trong cuộc càn quét ở gần đồn điền cao su Michelin, tây bắc Sài Gòn. Ảnh chụp ngày 22/8/1966

Một người tải thương Việt Nam đeo mặt nạ để tránh mùi khi đi qua thi thể của lính Mỹ và Việt Nam Cộng hòa tại đồn điền cao su Michelin, cách Sài Gòn 45 dặm về phía Đông Bắc. Ảnh chụp ngày 27/11/1965.
Năm 1953, mỗi tháng, Mỹ viện trợ cho Pháp 20.000 tấn vũ khí và quân nhu mỗi tháng, sau đó Mỹ đồng ý tăng lên 100.000 tấn/tháng, đổi lại chính phủ Mỹ yêu cầu Pháp phải có kết quả cụ thể. Khi chiến tranh chấm dứt vào năm 1954, Mỹ đã trả 78% chiến phí cho Pháp, thậm chí phi công Mỹ cũng tham gia chiến đấu cùng Pháp trong trận Điện Biên Phủ. Thời gian này ở tất cả các cấp bộ trong quân đội viễn chinh Pháp đều có cố vấn Mỹ. Người Mỹ có thể đến bất cứ đâu kiểm tra tình hình không cần sự chấp thuận của tổng chỉ huy Pháp. Việc Mỹ trực tiếp tham chiến tại chiến tranh Đông Dương chỉ còn là vấn đề thời gian 1-2 năm. Thậm chí khi Điện Biên Phủ nguy cấp, Mỹ đã tính tới chuyện dùng bom nguyên tử để cứu nguy cho Pháp.
Tuy nhiên công thức "Viện trợ Mỹ, viễn chinh Pháp, quân bản xứ" vẫn không cứu vãn được thất bại. Sau khi thất bại tại Điện Biên Phủ, Pháp đã mất hẳn ý chí tiếp tục chiến đấu tại Đông Dương.
Trước khi Hiệp ước Genève được ký kết 6 tuần, ngày 4/6/1954, Pháp đã đàm phán với Quốc gia Việt Nam bản dự thảo Hiệp ước Matignon (1954), nếu được ký chính thức thì Quốc gia Việt Nam sẽ hoàn toàn độc lập khỏi Liên hiệp Pháp. Chính phủ này sẽ không còn bị ràng buộc bởi những hiệp ước do Pháp ký kết. Tuy nhiên, Hiệp ước Matignon (1954) chưa được Quốc hội Pháp và Tổng thống Pháp phê chuẩn. Bên cạnh đó, cũng có những lập luận cho rằng Quốc gia Việt Nam vẫn bị ràng buộc bởi Hiệp định Geneva, bởi vì chính phủ này chỉ sở hữu một vài thuộc tính của một chủ quyền đầy đủ, và đặc biệt là nó phụ thuộc vào Pháp về quốc phòng, tài chính, thương mại, kinh tế. Tuy nhiên, Hiệp ước Genève đã diễn tiến quá nhanh. Sau khi Hiệp định Geneva được ký, Hiệp ước Matignon đã trở nên không bao giờ được hoàn thành. Quốc gia Việt Nam vẫn là một thành viên của Liên hiệp Pháp và do đó vẫn phải tuân thủ những Hiệp định do Liên hiệp Pháp ký kết.
Chuỗi ngày “địa ngục” của lính Mỹ ở Việt Nam:
Một lính thủy đánh bộ Mỹ lội trong bùn lầy. Những bức ảnh chỉ được công bố lần đầu 5 năm sau khi được chụp, tháng 2/1971.
Được sự hộ tống của xe tăng và chiến đấu cơ trong khu rừng khô phía trước, lính Mỹ thuộc Tiểu đoàn số 2, Hạm đội 5, bắt đầu tấn công.
4 lính thủy quân lục chiến Mỹ bê xác người đồng đội sau khi đơn vị của họ trúng đạn gần đồi 484. Bên phải là phóng viên ảnh người Pháp Catherine Leroy (1945 – 2006), cô đã bị cắt ra ngoài bức ảnh khi đăng trên tờ LIFE hồi đó.
Hình ảnh tiêu biểu của những lính thủy đánh bộ Mỹ trong những ngày này là dầm mình trong bùn đất, xung quanh là cây cối lởm chởm vì đạn pháo và súng trường. Binh lính bị thương, băng bó, mũ sắt, áo jacket dính máu... ở khắp chiến trường, nơi cách xa nhà họ hàng nghìn dặm.
Một lính Mỹ bị thương sau cuộc càn quét trên cánh đồng. Bức ảnh này không được công bố trong phóng sự gốc của LIFE.
Đội quân mệt mỏi của Mỹ sau trận đánh tại khu vực phía nam khu phi quân sự DMZ.
Một lính Mỹ khác bị thương băng bó kín mít.
Các lính Mỹ ăn đồ hộp trong giờ nghỉ ngơi giữa trận chiến.
Một lính Mỹ được phát bánh thánh khi tạm yên tiếng súng một ngày tháng 10/1966.
Kết quả Hiệp định: Quân đội Nhân dân Việt Nam, lực lượng đã giành thắng lợi sau cuộc chiến, tập kết về miền Bắc. Lực lượng Quốc gia Việt Nam cùng với quân đội Pháp tập kết về miền Nam, tập kết dân sự và chính trị theo nguyên tắc tự nguyện. Theo thống kê của Ủy ban Quốc tế Giám sát Đình chiến có 892.876 dân thường di cư từ miền Bắc vào miền Nam Việt Nam, trong khi 140.000 người khác từ miền Nam tập kết ra Bắc. Quân đội Pháp dần dần rút khỏi miền Nam và trao quyền lực cho chính quyền Quốc gia Việt Nam.
![]() |
| Tình đồng chí trên đường hành quân |
![]() |
| Nữ du kích |
![]() |
| Giữa mưa bom bão đạn là tình đồng đội, đồng chí của những người bộ đội cụ Hồ |
![]() |
| Nụ cười sảng khoải của các anh bộ đội như tiếp thêm sức lực cho đồng đội |
![]() |
| "Thanh niên xung phong với niềm tin thắng lợi". |
![]() |
| Nự cười của các thành viên trong đội du kích xã Trung Giang - đơn vị anh hùng lực lượng vũ trang. Họ đã biến vỏ thép của xe thiết giáp M113 của Mỹ thành ụ đề kháng ngay trên bãi cát ven biển quê hương. |
![]() |
| Niềm vui chiến thắng |
![]() |
| Bức ảnh "Chiến sĩ giao liên" với nụ cười tươi của o du kích đang băng rừng vượt sông làm nhiệm vụ. |
![]() |
| Niềm vui của những người lính trẻ trong bức ảnh "Qua sông Cam Lộ" (được chụp tại Quảng Trị, năm 1972). |
![]() |
![]() |
| Trận địa pháo cao xạ dân quân Vĩnh Thủy lập công bắn rơi 6 máy bay Mỹ ngày 11/11/1966. |
![]() |
![]() |
| Nụ cười trong thời chiến |
![]() |
| Bức ảnh "Nắng dưới lòng đất" (Thành cổ Quảng Trị, 1972) |
![]() |
| Thư nhà |
![]() |
| Những người lính cụ Hồ dũng cảm băng qua mưa bom, bão đạn tiến lên phía trước tiêu diệt quân thù, bỏ lại sau lưng là xác của những tên cướp nước |
![]() |
| Nụ cười của nữ dân quân ngoại thành Hà Nội hạ máy bay Mỹ, 1972 |
Chính quyền Quốc gia Việt Nam (tiền thân của Việt Nam Cộng hòa) từ chối hiệp thương tổng tuyển cử tự do với lý do mà Thủ tướng Ngô Đình Diệm đưa ra là "Chúng tôi không từ chối nguyên tắc tuyển cử tự do để thống nhất đất nước một cách hoà bình và dân chủ", "thống nhất đất nước trong tự do chứ không phải trong nô lệ" nhưng ông "nghi ngờ về việc có thể đảm bảo những điều kiện của cuộc bầu cử tự do ở miền Bắc". Khi trở thành Tổng thống Việt Nam Cộng hòa, Ngô Đình Diệm còn ra nhiều tuyên bố công kích chính phủ Việt Nam Dân chủ Cộng hòa. Đáp lại những cáo buộc này, Hồ Chí Minh đã trả lời với các nhà báo Mỹ ở hãng U.P rằng: "Đó là lời vu khống của những người không muốn thống nhất Việt Nam bằng tổng tuyển cử tự do. Chính phủ Việt Nam Dân chủ Cộng hoà bảo đảm tổng tuyển cử sẽ được hoàn toàn tự do ở miền Bắc Việt Nam.".
Ngay từ tháng 3/1961, khi Chủ tịch Quốc hội Pháp Jacques Chaban-Delmas có chuyến sang Mỹ, Thống chế Pháp Charles de Gaulle nhờ ông này nhắn lại với Tổng thống Mỹ “đừng để sa lầy trong vấn đề Việt Nam, ở đó Mỹ có thể mất cả lực lượng lẫn linh hồn của mình”. Ngày 31/5/1961, tiếp Tổng thống Mỹ John F. Kennedy tại Paris, Thống chế Pháp Charles de Gaulle cảnh báo:
“Người Pháp chúng tôi có kinh nghiệm về chuyện đó. Người Mỹ các ông trước đây [chỉ các tổng thống Mỹ tiền nhiệm] từng muốn thay chỗ chúng tôi ở Đông Dương. Và hôm nay ông muốn nối gót chúng tôi để nhen lại ngọn lửa chiến tranh mà chúng tôi đã kết thúc. Tôi xin báo trước cho ông biết: các ông sẽ từ từ sa vào vũng lầy quân sự và chính trị không đáy, bất chấp những tổn thất [nhân mạng] và chi tiêu [tiền của] mà các ông có thể phung phí ở đó".
(Còn tiếp)
----------------------------------------------------------------------































Nhận xét
Đăng nhận xét