CÙNH TẮC BIẾN!
Dự đoán:
-Khoảng cuối thế kỷ này, thể chế chính trị như hiện nay ở Trung Quốc sẽ không còn, đánh dấu kết thúc kiểu thể chế: "Đảng (cộng sản) lãnh đạo, nhà nước quản lý, nhân dân làm chủ"!
-Sự biến ấy được phát động từ một người thuộc nội bộ ĐCS Trung Quốc, bắt nguồn từ sự chín muồi về nhận thức triết học.
-Việt Nam ăn theo!
---------------------------------------------------------------------
(ĐC sưu tầm trên NET)
Tân Cương nghĩa là ‘biên cương mới’, tên gọi này được đặt từ thời nhà Thanh Khu tự trị là nơi sinh sống của nhiều dân tộc khác nhau, các dân tộc chính có thể kể tới là Uyghur (Duy Ngô Nhĩ), Hán, Kazakh, Hồi, Kyrgyz và Mông Cổ. Tân Cương cũng là nơi diễn ra nhiều vụ bạo lực sắc tộc đổ máu, như Bạo động tại Ürümqi, tháng 7 năm 2009. Tân Cương được chia thành Bồn địa Dzungarian ở phía bắc và Bồn địa Tarim ở phía nam. Chỉ có khoảng 4,3% diện tích đất đai của Tân Cương thích hợp cho con người cư trú.
Tên gọi Tân Cương xuất hiện trong thời Nhà Thanh. Trong giai đoạn đầu, triều đình nhà Thanh coi Tân Cương bao gồm tất cả các khu vực từng thuộc đế quốc Trung Hoa từng bị mất nhưng nay được nhà Thanh thu hồi lại. Sau năm 1821, nhà Thanh đặt lại tên cho các khu vực thu hồi và Tân Cương trở thành tên của khu tự trị cho đến nay.
Tân Cương chiếm khoảng một phần sáu diện tích toàn Trung Quốc và một phần tư chiều dài đường biên giới quốc gia. dãy núi Thiên Sơn (Uyghur: غات ىرڭەت, Tengri Tagh) chia tách khu tự trị thành hai bồn địa lớn: Bồn địa Dzungarian ở phía bắc và Bồn địa Tarim ở phía nam. Hầu hết bồn địa Tarim là sa mạc Taklamakan- điểm thấp nhất của Tân Cương, cũng như toàn Trung Quốc là Vệt lõm Turpan với cao độ 155 mét dưới mực nước biển, điểm cao nhất là K2, trên 8611 mét so với mực nước biển trên biên giới với Pakistan. Các dãy núi khác là Pamir ở phía đông nam, Karakoram ở phía nam và Dãy núi Altai ở phía bắc.
Hầu hết Tân Cương có kiến tạo địa chất trẻ, được tạo thành từ sự va đập của mảng Ấn Độ vào mảng Âu Á, định hình Thiên Sơn, Côn Lôn Sơn và dãy núi Pamir. Do vậy, Tân Cương là một khu vực động đất chính. Các hình thành địa chất cũ hơn xuất hiện chủ yếu ở khu vực cực bắc nơi Khối Junggar là một phần về mặt địa chất của Kazakhstan, và ở phía đông là một phần của Bình nguyên Hoa Bắc.
Tân Cương với vị trí biệt lập và rất xa biển. Điểm khó tiếp cận nhất trên đại lục Âu Á có tọa độ (46°16.8′B 86°40.2′Đ) nằm ở Sa mạc Dzoosotoyn Elisen, cách vùng biển gần nhất là 2648 km (1.645 mi) theo đường thẳng.
Dãy núi Thiên Sơn nằm trên biên giới Tân Cương-Kyrgyzstan có đèo Torugrat cao 3752 mét. Quốc lộ Karakorum (KKH) kết nối Islamabad, Pakistan với Kashgar trên Hành lang Khunjerab.
Vì là điểm cực tây của Trung Quốc, người dân địa phương sử dụng thời gian không chính thức là UTC+6, mặc dù múi giờ chính thức là UTC+8.
Tân Cương được biết đến với các loại hoa quả và sản phẩm khác như
nho, dưa, lê, bông, lúa mì, tơ lụa, quả óc chó và cừu. Tân Cương cũng có
trữ lượng lớn về khoáng sản và dầu mỏ.
Những người di cư Đông Á đã tới điểm phía đông của bồn địa Tarim
khoảng 3000 năm trước, trong khi người Duy Ngô Nhĩ đã tới đây sau sự sụp
đổ của Hãn quốc Hồi Hột tại Mông Cổ ngày nay vào khoảng năm 842.
Tân Cương là nơi cư trú của nhiều nhóm dân tộc và tôn giáo khác nhau, tuy nhiên phần lớn cư dân tại đây theo Hồi giáo. Trong số các dân tộc có đức tin Hồi giáo, đáng chú ý nhất là các dân tộc Turk như Uyghur, Uzbek, Kyrgyz, Tatar và Kazakh, cũng có một số người Hồi giáo thuộc nhóm dân tộc Iran và người Hồi. Các dân tộc khác là Hán, Mông Cổ, Nga, Tích Bá và Mãn. Năm 1945, có khoảng 70.000 người gốc Nga sinh sống tại Tân Cương.
Dân số Tân Cương ước tính vào khoảng 1.180.000 người năm 1880 và tăng lên rõ rệt sau đó do những người di cư và bị lưu đày từ Trung Nguyên.
Tỷ lệ người Hán tại Tân Cương đã tăng từ dưới 7% vào năm 1949 lên tới 40% theo con số chính thức hiện nay. Số liệu này không bao gồm các quân nhân hay gia đình của họ và những người lao động di cư không đăng ký. Những biến đổi này được cho là do Binh đoàn sản xuất và xây dựng Tân Cương, một tổ chức bán quân sự của những người khai hoang đã xây dựng các nông trường, thị trấn và thành phố rải rác khắp Tân Cương. Sự biến đổi về mặt dân tộc được những người Uyghur ly khai coi là mối đe dọa đối với văn hóa bản địa của các dân tộc tại Tân Cương. Năm 1953, khoảng ba phần tư dân cư sinh sống ở phía nam các dãy núi, thuộc bồn địa Tarim và dòng người Hán di cư thẳng tới Dzungaria (phía bắc các dãy núi của bồn địa Tarim) bởi nơi này có các tài nguyên thiên nhiên. Các dân tộc thiểu số tại Tân Cương không phải thi hành chính sách một con.
Các xác ướp Tân Cương có niên đại từ thế kỷ 3 TCN có tóc màu hung đỏ hoặc vàng hoe, nay được trưng bày tại Bảo tàng Ürümqi; các xác ướp này được phát hiện trong cùng khu vực lòng chảo Tarim. Các bộ lạc du mục như Nguyệt Chi thuộc nhóm người nhập cư nói tiếng Ấn-Âu, nhóm người này định cư ở phía đông Trung Á (có thể xa đến tỉnh Cam Túc). Văn hóa Ordos ở miền bắc Trung Quốc, nằm ở phía đông lãnh địa của người Nguyệt Chi, là một ví dụ khác.
Các nền văn hóa du mục như Nguyệt Chi được ghi chép tại khu vực Tân Cương sớm nhất là vào năm 645 TCN, đó là trong các quyển 73: 78: 80: 81 của Quản Tử do Quản Trọng viết. Ông mô tả Ngu Thị 禺氏, hay Ngưu Thị 牛氏 là một dân tộc đến từ tây-bắc, họ cung cấp ngọc thạch đến Trung Hoa từ dãy núi Ngu Thị ở không xa thuộc Cam Túc. Việc cung cấp ngọc thạch từ lòng chảo Tarim từ thời cổ cũng được chứng minh thông qua khảo cổ học: "Người ta biết rằng các quân chủ Trung Hoa cổ đại gắn bó mật thiết với ngọc thạch. Toàn bộ các đồ ngọc thạch được khai quật từ Phụ Hảo mộ từ thời nhà Thương, bao gồm trên 750 miếng, đến từ Hòa Điền thuộc Tân Cương ngày nay. Ngay từ giữa thiên niên kỷ thứ nhất TCN, người Nguyệt Chi đã tham gia vào việc giao thương ngọc thạch, trong đó những người tiêu thụ chính là các vị quân chủ tại Trung Hoa nông nghiệp."
Các bộ lạc du mục Nguyệt Chi được ghi chép chi tiết trong thư tịch lịch sử Trung Hoa, đặc biệt là trong "Sử ký" của Tư Mã Thiên, trong đó nói rằng họ "thịnh vượng" song thường xuyên có xung đột với bộ lạc Hung Nô láng giềng ở phía đông bắc. Theo các ghi chép này:
Theo Hán thư ghi chép thì đồn điền bắt đầu vào năm 101 TCN, năm đó Nhị Sư tướng quân Lý Quảng Lợi lần thứ hai viễn chinh nước Đại Uyển thắng lợi. Tiếp thu lời răn dạy về sự khó khăn trong việc cấp dưỡng lương thực trong các cuộc viễn chinh, nhà Hán bắt đầu lập đồn điền ở Tây Vực, đặt quan chuyên môn quản lý công việc đồn điền.
Đánh chiếm nước Đại Uyển xa xôi là một cuộc chiến có ý nghĩa quyết định nhằm củng cố địa vị của nhà Hán tại Tây Vực. Nước Đại Uyển nằm ngoài Cao nguyên Pamir, trường kỳ bị người Hung Nô khống chế, đối với việc ngoại giao thời nhà Hán như vậy là mạo phạm. Năm 104 TCN, Hán Vũ Đế phái đặc sứ đi Đại Uyển để mua đổi ngựa quý, nhưng bị cự tuyệt và sứ giả bị làm nhục. Tin tức truyền đến Trường An, Hán Vũ Đế giận dữ bèn lệnh cho Đại tướng Lý Quảng Lợi xuất chinh. Nước Đại Uyển có thành tên là Nhị Sư, sản sinh ngựa quý. Hán Vũ Đế lấy tên là Nhị Sư tướng quân ban cho Lý Quảng Lợi biểu thị quyết tâm chinh phục Đại Uyển.
Nhị Sư tướng quân suất lĩnh 6 ngàn kỵ binh và hàng vạn quân sĩ ra Ngọc Môn quan hướng tây chinh phạt. Khi đến vùng đất phèn ở La Bố thì mọi người đều mệt mỏi, yếu sức. Sau đó trên đường tiến về cao nguyên Pamir lại gặp quân Hung Nô sách động các nước nhỏ đánh lén, cắt đứt xe lương, đại quân trên đường tiến đến Đại Oản đã mất hết lợi thế. Năm 102 TCN, Nhị Sư tướng quân bị thất bại phải rút lui về Đôn Hoàng, đám tàn quân chỉ còn lại một, hai phần mười.
Ông sai sứ trình thư về triều đình yêu cầu bãi binh, trong thư viết: "Đường sá xa xôi, vận lương, khó khăn, binh lính không sợ chiến đấu mà chỉ lo đói khát, người ít không đủ đánh thắng Đại Uyển". Hán Vũ Đế nghe Lý Quảng Lợi thua trận rút lui rất lấy làm giận dữ, hạ lệnh: "Kẻ bại trận bước vào Ngọc Môn quan, chém". Đồng thời tại triều, quan văn nào chủ trương đinh chiến, hòa hoãn cũng bị trị tội. Nhà vua hạ quyết tâm dốc toàn lực tăng cường tinh binh viễn chinh một lần nữa.
Năm 101 TCN, Nhị Sư tướng quân chinh phạt miền tây lần thứ hai. Ông suất lĩnh 6 vạn binh sĩ, ba ngàn chiến mã và hơn một vạn trâu/bò, lừa, ngựa, lạc đà chuyển vận lương thảo và khí giới. Một đội quân hùng mạnh hơn bao giờ hết ào ào tiến về phía tây, các tiểu quốc dọc đường đều chấn kinh, tranh nhau dâng cấp rượu thịt. Đại quân thủ thắng sau hơn 40 ngày vây chặt thành Đại Uyển. Nước Đại Uyển bại trận phải dâng tặng ngựa quý hàng chục con, ngựa tốt hàng ngàn con. Hán Vũ Đế không tiếc sức người, sức của cả nước đi viễn chinh Đại Uyển, nếu nói là để lấy về ngựa quý thì tại sao không nói là để đẩy lùi thế lực của người Hung Nô ở Tây Vực, tăng cường uy thế của nhà Hán tại đây. Từ trước đến nay, ở Tây Vực bất kể là Đại Uyển hoặc các tiểu quốc khác đều bị sự khống chế và ảnh hưởng của Hung Nô dưới nhiều mức độ khác nhau.
Sau lần viễn chinh này, vị trí của nhà Hán ở Tây Vực được củng cố hơn lên, quan viên quân sự, hành chính bắt đầu đặt trụ sở lâu dài ở Tây Vực, đồng thời cũng cho lập đồn điền bảo đảm việc cấp dưỡng lương thực cho quan viên, quân sĩ tại đây. Hán thư có ghi: "Từ sau khi Nhị Sư tướng quân chinh phạt Đại Uyển thành công, toàn xứ Tây Vực khiếp sợ, nhiều nước sai sứ triều cống, người Tây Vực nào có công sẽ được ban chức... Luân Đài, Cừ Lê đều có hàng trăm lính canh điền, đặt hiệu úy trông coi..."
Luân Đài và Cừ Lê đời Hán nay là vùng trung được lưu vực sông Tarim thuộc Nam Tân Cương, nằm trên tuyến giữa của Con đường tơ lụa, đất cát phì nhiêu, nước nôi sung túc, khí hậu ôn hòa, theo báo cáo của các quan đại thần nhà Hán và Tang Hoằng Dương thì các đồn điền Luân Đài và Cừ Lê sau 10 năm khai khẩn, đất canh tác có đến năm ngàn khoánh, trồng ngũ cốc bội thu và chín cùng với lúa ở Trung Nguyên.
Vói tầm nhìn rộng lớn của Tang Hoằng Dương, ông đưa ra kế hoạch từng bước mở rộng đồn điền tại Tây Vực lên vua Hán Vũ Đế. Ông đề nghị khảo sát, xem xét địa hình, khai thác nguồn thủy lợi, sửa mương đào rãnh, phổ biến kinh nghiệm canh tác ở nội địa. Ông còn đề xuất binh sĩ sau khi khai khẩn tạo được thành tích có thể cho di dân từ nội địa đến để thay thế và làm tiếp.
Các đề nghị của Tang Hoằng Dương không được triều đình bấy giờ chấp nhận, phải đợi đến 10 năm sau mới được Hán Chiêu Đế tiếp thụ. Hán Chiêu Đế bổ nhiệm Thái tử nước Vu Di làm Hiệu úy tướng quân chủ quản công việc đồn điền ở khu vực Luân Đài. Về sau, việc lập đồn điền mở ra khắp các nơi ở Tây Vực, nổi tiếng nhất là các đồn điền ở Thổ Lỗ Phồn, Cáp Mật, Cát Mộc Tát Nhĩ, Khố Nhĩ Lặc, A Khắc Tô... thậm chí còn lan qua vùng phụ cận hồ Issyk Kul thuộc địa phận Kyrgyzstan ngày nay.
Tùy vào sự phát triển đồn điền, các nông cụ bằng sắt và nghề rèn được truyền vào Tây Vực, ngoài ra, công tác thủy lợi tưới tiêu và kỹ thuật đào giếng cũng được phổ biến. Công cụ và kỹ thuật sản xuất tiên tiến ở nội địa lần lượt được du nhập vào Tây Vực, cuộc sống kinh tế của nhân dân ở đây và những ảnh hưởng canh tác nông nghiệp mang lại đã có những bước tiến rõ rệt và sâu sắc.
Đến đời Hán Tuyên Đế, vào năm Thần Tước năm thứ hai (năm 60 TCN), vua Hung Nô là Nhật Trục Vương dẫn đại binh đầu hàng nhà Hán, bấy giờ nhà Hán mới chính thức thiết đặt việc đô hộ Tây Vực, cử trưởng quan tối cao thống lĩnh địa hạt Tân Cương. Năm 60 TCN, triều đình phong kiến nhà Hán bắt đầu thay thế sự thống trị của chế độ chủ nô Hung Nô ở Tây Vực, chọn Ô Lũy (nay là huyện Luân Đài, Tân Cương) làm trung tâm thiết lập Tây Vực đô hộ phủ đại diện cho vương triều hành xử chủ quyền quốc gia từ hồ Balkash đến phía đông Cao nguyên Pamia. Từ đó, sự thông thương của Con đường tơ lụa được bảo đảm an toàn. Lúc đó Bắc lộ Thiên Sơn vẫn còn một phần đất thuộc Hung Nô. Đến năm 58 TCN, toàn bộ vùng đất này mới trực thuộc chính quyền trung ương nhà Hán. Những năm đầu đời Đông Hán, khu Tân Cương xảy ra tình hình cát cứ, bắc Tân Cương bị người Hung Nô chiếm lại. Chính quyền Đông Hán một lần nữa phải tiến đánh mới thu phục lại toàn bộ Tân Cương. Cảnh Cung là viên quan chấp chưởng quân sự của triều đình Đông Hán được phái đến đóng quân ở Bắc Thiên Sơn. Quân Hung Nô quấy nhiễu vùng Xa Sư Hậu quốc, ông cố thủ thành Kim Mãn (nay là Jimsar) và đẩy lui quân địch.
Đột Quyết là một dân tộc du mục cổ lão ở trên các sa mạc phía bắc Trung Quốc, từng liên minh Với bộ lạc Hung Nô, sau khi Hung Nô suy sụp thì bộ lạc này mới bắt đầu dùng tên gọi "Đột Quyết" và xuất hiện trên vũ đài lịch sử. Vào khoảng năm 552, nước Đột Quyết thành lập, nhưng không lâu sau đó lại bị phân liệt thành Đông Đột Quyết và Tây Đột Quyết.
Tây Đột Quyết khống chế một khu vực rộng lớn từ Bắc Thiên Sơn, Tây A Nhĩ Thái Sơn đến đông Hắc Hải. Vào thời cực thịnh của Tây Đột Quyết thì một số nước nhỏ ở Nam Thiên Sơn đều bị họ khống chế hoặc uy hiếp.
Tây Đột Quyết và chính quyền trung ương nhà Đường có mối quan hệ thân thuộc. Nhiều đời vua Tây Đột Quyết chịu nhận sắc phong của hoàng đế Đường và hàng năm về triều tiến cống. Sứ giả ngoại quốc gọi người Tây Đột Quyết là người Trung Quốc và cho rằng lãnh thổ phía tây của Tây Đột Quyết là cương vực Tây bộ của Trung Quốc. Thế nhưng Tây Đột Quyết lại dùng quân cát cứ, đôi khi chống lại, thậm chí còn đem quân đánh lại nhà Đường.
Là một bộ lạc du mục, nên sự thống trị của Tây Đột Quyết ở Tây Vực cực kỳ khắc nghiệt. Họ cướp bóc lương thực, súc vật của các nước nhỏ, đốt phá làng mạc, thành quách, bắt bớ tù binh, nô lệ. Thương khách lai vãng trên Con đường tơ lụa đôi khi cũng bị uy hiếp, cướp đoạt. Tây Đột Quyết còn mưu đồ lũng đoạn việc buôn bán tơ lụa của Trung Quốc với phương Tây đến nỗi phá vỡ mối quan hệ hòa mục của người Ba Tư. Hàng loạt những hành động bạo ngược của Tây Đột Quyết đã làm trở ngại sự tiến bộ của Tây Vực và sự phồn vinh của nền giao thương của phương Tây.
Sự kiện này khiến Tây Đột Quyết cát cứ ở bắc Thiên Sơn phải chấn động. Sa Bát La khả hãn A Sử Na Hạ Lỗ không đánh mà hàng, đích thân đến Trường An triều kiến Đường Thái Tông và xin thần phục. Đường Thái Tông bèn lập Dao Trì Đô đốc phủ tại bắc lộ Thiên Sơn, giao A Sử Na Hạ Lỗ làm đô đóc, đóng trú sở tại Đình Châu (nay là Jimusar).
A Sử Na Hạ Lỗ là người đa mưu, ông sử dụng ngọn cờ của nhà Đường tự gây dựng thế lực, đến khi đủ hùng mạnh thì nổi dậy xưng vương, dời đô đến lưu vực sông Y Lê, đồng thời lần nữa đem binh tiến đánh nhà Đường.
Sau khi ảo tưởng về một nền hòa bình thống nhất Tây Vực của nhà Đường bị phá vỡ, bắt đầu từ năm 652, nhà Đường nhiều lần đem binh đánh giáp công A Sử Na Hạ Lỗ từ hai cánh nam bắc, rồi tổng công kích tại lưu vực sông Y Lê; A Sử Na Hạ Lỗ đại bại đào thoát về phía tây, chạy thẳng đến Thạch Quốc và bị người Thạch Quốc bắt đem giao cho quân đội nhà Đường. Từ đó, Tây Đột Quyết xưng hùng xưng bá ở Tây Vực bị diệt vong, nhà Đường hoàn thành công cuộc thống nhất Tây Vực vào năm 657.
Nhà Đường thiết lập hai Đô hộ phủ ở Côn Lăng và Mông Trì tại bắc lộ Thiên Sơn, phân chia việc cai trị lãnh thổ vùng tây sông Toái Diệp. Năm 702, để tăng cường sự thống trị tại Bắc Lộ Thiên Sơn, nữ hoàng đế Võ Tắc Thiên lập Bắc Đình đô hộ phủ ở Đình Châu, quản hạt luôn hai Đô hộ phủ Côn Lăng và Mông Trì với số binh sĩ hơn hai vạn.
Nhờ sự thiết lập Bắc Đình đô hộ phủ mà con đường thông vãng đông-tây ở bắc Thiên Sơn lại được khai thông. Sau khi thương khách trên con đường tơ lụa ra khỏi Đôn Hoàng, không những có thể theo tuyến nam và tuyết bắc từ sa mạc Taklamakan đi về phía tây mà còn có thể qua Ba Lý Khôn, Bắc Đình đi thẳng đến lưu vực sông Y Lê tiến lên phía tây để đến Ba Tư.
Thời Thịnh Đường, biên giới phía tây xa đến tận Hàm Hải. Để cai quản khu tây bắc rộng lớn ấy, triều đình nhà Đường đã thiết lập ở đây hai trung tâm chính trị quân sự: một là An Tây đô hộ phủ, đặt tại nước Quy Từ (nay là huyện Khố Xa, Tân Cương), cai quản từ vùng Thiên Sơn đến địa phận phía nam sông Toái Diệp; và một là Bắc Đình đô hộ phủ, đặt tại Đình Châu (nay là huyện Jimsar, Tân Cương), cai quản từ bắc Thiên Sơn đến khu đông bộ Hàm Hải. Năm Trường An thứ 2 (702 CN), nữ hoàng Võ Tắc Thiên mới thiết đặt Bắc Đình đô hộ phủ tại Đình Châu để cai quản vùng lãnh thổ bắc Thiên Sơn.
Việc thiết lập An Tây Đô hộ phủ và Bắc Đình Đô hộ phủ đánh dấu sự nghiệp to lớn của nhà Đường. đối với sự thống nhất Tây Vực. Có một thời việc giao thương đông - tây trên con đường tơ lụa bị gián đoạn nay mới được khôi phục và còn đạt đến trình độ phồn thịnh mà trước đó chưa từng có.
Năm 647 CN, thủ lĩnh Hồi Hột Thổ Mật Độ tự xưng là Khả hãn và nhận sách phong của nhà Đường với danh hiệu: "Hoài Nhân Đại tướng quân kiêm Hãn Hải Đô đốc". Và trong lịch sử có lần một vương quốc Hồi Hột cường thịnh được hình thành. (Có thuyết cho rằng nước Hồi Hột được kiến lập vào năm 744 dựa trên sách phong thủ lĩnh Cốt Lực Bùi La nước Hồi Hột làm "Hoài Nhân khả hãn" trực tiếp thừa nhận ông ta là quốc vương chứ không phong tước hiệu nữa).
Người Hồi Hột vốn lấy du mục làm chính, nhưng với sự giúp đỡ của thợ thuyền người Hán, họ đã bắt chước người Hán xây dựng nhiều thành thị. Người Hồi Hột còn học chữ Hán. Năm 788, một thượng thư nhà Đường người Hồi Hột xin đổi danh xưng thành "Hồi Cốt" có ý nghĩa là người Hồi nhanh nhẹn như chim ưng, điều này cho thấy tầng lớp trí thức người thiểu số tinh thông Hán học.
Khi có loạn An Sử, nhà Đường đã từng yêu cầu nước Hồi Hột đem đội kỵ binh tiến vào Trung Nguyên giúp quân binh nhà Đường bình định bọn An Lộc Sơn và Sử Tư Minh. Để cảm tạ công lao trợ chiến ấy, hằng năm nhà Đường đem tặng cho Hồi Hột hai vạn tám lụa, đồng thời mua nhiều ngựa của người Hồi Hột với giá cao, mỗi con đổi được 40 tấm lụa. Do đó nền kinh tế Hồi Hột trở nên thuận lợi. Hồi Hột còn giúp nhà Đường duy trì bảo vệ đường giao thông giữa Trung Quốc và phương Tây.
Khi nước Thổ Phồn chiếm Hành lang Hà Tây và cắt đứt đường giao thông giữa nhà Đường và Tây Vực, viên chức nhà Đường và thương nhân đều phải mượn đường qua nước Hồi Hột để đi lại.
Với sự giúp đỡ của người Chiêu Vũ cửu tính, giỏi buôn bán kinh doanh, Hồi Hột đã từng là cầu nối mậu dịch quan trọng giữa Trung Quốc và Tây Vực.
Họ nhận những quà biếu từ nhà Đường đồng thời thông qua việc trao đổi lụa - ngựa họ cũng thu về nhiều tơ lụa, trừ chi phí ra, họ cũng có một số lợi tức tương đương với những khách thương buôn bán qua lại trên các thị trường vùng Tây Vực.
Đến cuối thế kỷ thứ 8, nước Hồi Hột bắt đầu suy thoái, thế kỷ thứ 9 xảy ra lục đục nội bộ, năm 840 thì bị người Điểm Giáp tiêu diệt.
Sau khi nước Hồi Hột bị diệt vong, người Hồi Hột bắt đầu một cuộc đại di tản về miền tây nổi tiếng trong lịch sử.
Một bộ phận định cư ở hành lang Hà Tây (Cam Túc), gọi là "Cam Châu Hồi Cốt", một bộ phận khác thì định cư ở Tân Cương, phần lớn tại khu vực Nam Thiên Sơn. Một chi khác lấy đất Thổ Lỗ Phồn làm trung tâm kiến lập ra nước Cao Xương của người Hồi Cốt, có cương vực đông giáp Tửu Tuyền, tây giáp Khố Xa, nam gặp đại sa mạc Taklamakan.
Còn một chi nữa thiên di về Dãy núi Pamir và lập ra nước Ca La, lãnh vực bao gồm phần lớn vùng Nam Cương và một phần đất thuộc Trung Á.
Người Hồi Cốt tại vùng lòng chảo Thổ Lỗ Phồn, lòng chảo Tarim và trên dãy Thông Lĩnh chung sống lâu dài với dân cư bản địa, kết hôn lẫn nhau, dần dần hình thành tộc người Duy Ngô Nhĩ hiện nay.
Vương triều Kalahan là chính quyền được thành lập bởi người Đột Quyết và người Hồi Hột vào khoảng thế kỷ 10, cương vực bao gồm vùng đông và nam hồ Balkhash và vùng tây bộ Tân Cương ngày nay.
Các thủ lĩnh của Vương triều Kalahan thường chứng tỏ mình là người Trung Quốc. Đầu họ đội mũ có dòng chữ đề: "Đào hoa Thạch Hãn" tức có nghĩa là "vua Trung Quốc". Vương triều này có hai trung tâm chính trị, một là Bát La Sa Cổn mà sử sách Trung Quốc gọi là Bùi La Tướng quân, và một là Ca Thập Hát Nhĩ.
Vương triều Kalahan là vương triều đầu tiên theo tín ngưỡng đạo Hồi. Bắt đầu từ thế kỷ 10, các thủ lĩnh của vương triều nhiều lần dùng bạo lực cưỡng ép truyền bá đạo
Hồi và đôi khi còn tiến hành những cuộc "thánh chiến". Ca Thập Hát Nhĩ vừa là trung tâm chính trị của Vương triều Kalahan, vừa là một trong những trung tâm Hồi giáo lớn nhất ở Tây Vực.
Vào thế kỷ 17, một nhánh của người Mông Cổ là người Chuẩn Cát Nhĩ đã lập ra một đế quốc bao trùm phần lớn Tân Cương. Người Chuẩn Cát Nhĩ nguyên là một vài bộ lạc Ngõa Lạt, họ đã thành lập và duy trì một trong các đế quốc du mục cuối cùng trong lịch sử. Hãn quốc Chuẩn Cát Nhĩ chiếm cứ khu vực cùng tên và trải dài từ cực tây của Vạn Lý Trường Thành đến phía đông Kazakhstan ngày nay, và từ phía bắc Kyrgyzstan ngày nay đến phía nam Siberia. Hãn quốc Chuẩn Cát Nhĩ tồn tại từ giữa thế kỷ 17 đến giữa thế kỷ 18, khi nó bị triều Thanh chinh phục.
Người Chuẩn Cát Nhĩ chịu tổn hại nặng nề từ chiến tranh và dịch bệnh đậu mùa. Một nhà văn là Ngụy Nguyên đã mô tả cảnh tượng tan hoang tại khu vực nay là bắc bộ Tân Cương: "một vùng bằng phẳng trống không hàng nghìn lý, không có yurt của dân Ngõa Lạt ngoại trừ những nơi đã đầu hàng." Người ta ước tính rằng có đến 80% trong tổng số 600.000 (hoặc hơn) người Chuẩn Cát Nhĩ đã bị chết vì dịch bệnh và chiến tranh, và phải mất hàng thế hệ để phục hồi.
Sau khi đánh bại Chuẩn Cát Nhĩ, triều Thanh đã lập các thành viên của một gia tộc sufi shaykhs được gọi là các "hòa trác" (Khoja) làm những người cai trị ở phía tây lòng chảo Tarim, phía nam Thiên Sơn. Tuy nhiên, vào các năm 1758–59, các cuộc nổi loạn chống lại sự sắp đặt này đã nổ ra ở cả phía bắc và phía nam Thiên Sơn. Triều đình Thanh sau đó đã bắt buộc phải thiết lập một hình thức cai trị quân sự trực tiếp đối với cả Dzungaria (Bắc Cương) và lòng chảo Tarim (Nam Cương). Người Mãn đặt toàn bộ khu vực dưới quyền quản lý của Y Lê tướng quân, người này thiết lập trị sở tại Huệ Viễn, 30 km về phía tây của Y Ninh (Yining).
Sau năm 1759, khi hình thành nên các đồn điền, "đặc biệt là ở lân cận Urumqi, nơi đất đai màu mỡ và có nguồn nước tưới phong phú trong khi chỉ có ít cư dân." Từ năm 1760 đến 1830, ngày càng có nhiều đồn điền được mở ra và người Hán tại Tân Cương tăng nhanh chóng, lên đến khoảng 155.000 người
Trong thời gian này nhà Thanh chi tiêu quân phí rất tốn kém. Từ năm 1875 đến 1878, mặt trận phía Tây (Turkestan, thuộc Tân Cương) tốn mất 51 triệu lạng bạc trong đó 14 triệu lạng bạc được các ngân hàng của Anh cho vay, triều đình cung cấp 26,7 triệu lạng bạc trong vòng 3 năm.
Năm 1865 Hão Hãn Cổ quốc A Cổ Bá xâm nhập vùng Tân Cương chiếm giữ các vùng biên giới phía nam Tân Cương, thành lập nên Triết Đức Sa Nhi hãn quốc. Năm 1870, A Cổ Bá đem quân tiến lên phía bắc đánh chiếm Ô Lỗ Mộc Tề.
Tháng 5 năm 1872 A Cổ Bách ký kết với Đế quốc Nga điều ước cắt nhượng đất đai cho Nga. Hai nước Anh và Nga ganh đua trong việc ủng hộ A Cổ Bách, trong đó Anh đưa đến hàng vạn khẩu súng từ Ấn Độ đến. Chỉ trong một chuyến hàng đưa sang từ Ấn Độ, số lượng vũ khí đã lên tới 22.000 khẩu súng, 8 đại bác, 2.000 đạn pháo. Đế quốc Ottoman cũng công nhận A Cổ Bách là lãnh tụ chính trị Hồi giáo và gửi đến 12.000 súng trường, 8 khẩu đại bác. Quân số của A Cổ Bách lên tới 45.360 người được người Thổ Nhĩ Kỳ huấn luyện.
Năm 1875 Tả Tông Đường được thăng Khâm sai đại thần Đốc biện Tân Cương quân vụ, Văn Hoa điện Đại học sĩ, trước đó Tả Tôn Đường đã chủ động chuẩn bị binh lương.
Năm 1866, Tả Tông Đường bắt đầu thiết lập một hệ thống tiếp vận. Trước hết, ông xây 5 trung tâm hậu trạm tại Trung Hoa chia đều từ đông nam đến tây bắc (gồm ở Thượng Hải tại tỉnh Giang Tô, Thiên Tân thuộc tỉnh Hà Bắc, Phần Châu ở Sơn Tây, Bao Ninh và Thuận Tân ở Tứ Xuyên) và từ đó lương thực, vũ khí và các loại khí cụ khác được mua để chở tới mặt trận. Các trạm cung ứng dịch vụ quân đội ở gần hay tại mặt trận như ở Tây An vùng Thiểm Tây, Thiên Thủy vùng Cam Túc được thành lập để nhận vật liệu chở từ hậu trạm tới và cung cấp cho lực lượng ở trận tiền bằng cáng, xe hay lạc đà xuyên qua hàng ngàn cây số sa mạc. Giữa các trạm dịch vụ chính và hậu trạm có một hay nhiều trạm trung gian để nhận và giao vật dụng. Hán Khẩu chẳng hạn dùng làm hậu trạm phân phối thóc gạo cho mặt trận Thiểm Cam, từ đó tiếp liệu được chở tới Tây An theo nhiều đường khác nhau. Với hệ thống cung cấp như thế, Tả Tông Đường có thể giữ cho tiếp vận không bị gián đoạn. Ông cho người đến Lương Châu, Túc Châu, Ninh Hạ, Bao Đầu và cả nước Nga thu mua lương thực, chia đường chở đến Cáp Mật và nhiều vùng khác xa đến hàng ngàn dặm. Hàng đoàn người và xe vận chuyển lương thảo có quan binh bảo vệ vượt qua sa mạc tập trung về Cáp Mật. Sau 2 năm, số lương thực tại Cáp Mật đã lên tới hơn 1.000 tấn, các nơi khác cũng có đến hàng trăm tấn, tích trữ đủ quân lương.
Cho quân đồn trú khai phá đất hoang: Ngoài việc thiết lập đường tiếp liệu từ các khu vực duyên hải, Tả Tông Đường còn theo đuổi một chiến lược cổ điển để giải quyết các vấn đề lương thực. Ông ra lệnh cho quân sĩ khai phá các đất hoang trong khu vực doanh trại để sản xuất thóc gạo cho riêng họ. Chiến lược này vốn dĩ dùng từ thời nhà Hán trong thế kỷ thứ nhất và thứ hai cho đến cuối thế kỷ 18 khi nhà Thanh đóng quân ở Tân Cương.
Khai phá đất hoang tại các vùng biên giới chủ yếu là một chiến lược giải quyết các vấn đề tiếp liệu nhưng cũng có những ảnh hưởng xã hội - kinh tế đáng kể. Thay vì đóng quân để khai hoang, có khi triều đình cho hạt giống, nông cụ, gia súc và chia đất cho nông dân rồi để họ cày cấy. Sau mùa gặt, nhà nước mua hoa màu thặng dư để nuôi quân. Chính sách đó gọi là Dân Đồn nghĩa là để cho dân làm ruộng. Việc đó giúp cho chính quyền sở tại bình định được nông dân và tái lập trật tự.
Ngoài ra, Tả Tông Đường cũng ra lệnh cho quân sĩ của ông tu sửa các hệ thống thủy lợi, đắp đường và trồng cây. Trong suốt chiến dịch này, quân của ông đã khai phá được hơn 19.000 mẫu, trồng 568.000 cây, làm được 96 cái cầu, đắp 800 dặm đường và sửa 13 hệ thống dẫn nước và sông rạch. Những công trình đó không những khiến cho cuộc chinh phạt thành công mà còn giúp cho phục hồi được trật tự chính trị và xã hội - kinh tế thời hậu chiến. Chiến lược đó đã có ảnh hưởng đáng kể trên hệ thống quân sự hiện đại.
Để có quân phí, Tả Tôn Đường vay tiền Ngân hàng Hối Phong Hồng Kông Thượng Hải, giao cho Hồ Tuyết Nham lo liệu vật tư và quân trang cần thiết cho đội quân Tây chinh, cấp cho ông khoản tiền tiếp vận; cơ hội thứ tư là lệnh cho ông nhập vũ khí hiện đại cần thiết từ bên ngoài để thu phục Tân Cương.
Tả Tôn Đường chỉnh đốn quân vụ, những ai không muốn tham gia quân Tây chinh đều được trở về quê, còn những ai ở lại phải chấp hành nghiêm minh kỷ luật không được tự ý dời doanh trại. Tả Tôn Đường lệnh cho Lưu Cẩm Đường chiêu mộ thêm tinh binh từ Hồ Nam nâng tổng số người gốc Hồ Nam trong quân Tây chinh lên tới 17.000 người, cộng thêm 16 đạo quân của Trương Diệu tạo thành lực lượng chủ lực của quân Tây chinh, tiếp theo quân Thục, quân Hoài cũng gia nhập đội quân Tây chinh, nâng tổng số quân lên tới 8 vạn người.
Năm 1873 Tả Tôn Đường thành lập Lan Châu cơ khí cục, cải tạo quân khí theo kiểu của Đức, mua hàng ngàn súng trường và đại bác của hãng Krupp.
Tiến chậm nhưng hành động nhanh: Để cho phù hợp với sự khó khăn của tiếp liệu, Tả Tông Đường phải chọn một chiến lược đặc biệt. Chiến lược đó gọi là Hoãn Tiến Tốc Chiến nghĩa là "di chuyển chậm nhưng quyết định nhanh trong chiến đấu". Nói một cách khác, chiến lược của ông là dùng nhiều thời gian để chuẩn bị cho các hành động quân sự. Ông chỉ dùng lực lượng sau khi tiếp liệu đã đầy đủ. Khi mọi sự sẵn sàng, ông tấn công nhanh vào những vị trí đã chọn và tiêu diệt địch càng nhanh càng tốt. Cho nên, về phương diện chiến lược là một cuộc chiến kéo dài nhưng trên phương diện chiến thuật là một chuỗi các cuộc tấn công nhanh và chắc chắn vào kẻ thù.
Trước khi đại bác được dùng rộng rãi trong chiến tranh, chiến thuật cốt yếu của Trung Hoa muốn chiếm một vị trí hiểm yếu là bao vây rồi cắt đường lương thực nhiều tháng hay năm cho địch chết đói và làm cho họ phải ra ngoài đánh. Chiến lược bao vây kéo dài này được dùng nhiều trong các chiến dịch đánh giặc Thái Bình của Tăng Quốc Phiên. Chẳng hạn như khi đánh Nam Kinh, thủ phủ của giặc Thái Bình, Tăng Quốc Thuyên đã dùng khoảng 50,000 quân bao vây thành trì kiên cố này hơn 2 năm trước khi hạ được thành năm 1864 khi quân Thái Bình phải phá vòng vây.
Nếu Tả Tông Đường dùng chiến thuật tương tự như thế trong chiến dịch chinh phạt ông sẽ gặp khó khăn rất nhiều về việc tiếp vận. Vì thế ông phải chọn chiến thuật đánh nhanh. Chiến thuật phối hợp hành động của nhiều đơn vị trong chiến đấu là một phương pháp xuất sắc để thực hiện việc đánh nhanh trong cả chiến dịch. Tả Tông Đường thường tập trung đại pháo và kỵ binh vào những mặt trận chính phối hợp với bộ binh. Đánh ban đêm và đánh bất ngờ là những chiến thuật tiêu biểu dùng trong những trận quyết định.
Pháo binh cũng đã được nhóm Vạn Thắng quân dùng nhiều trong chiến tranh ở Trung Hoa thời đó để chống Thái Bình Thiên Quốc. Tương quân cũng theo cách đó. Tuy nhiên không một lực lượng nào của Trung Hoa đã dùng nhiều trong chiến đấu để sau này thành một chiến thuật mới đáng kể như về sau này. Chiến thuật tiêu biểu của quân đội Tả Tông Đường để chiếm các vị trí kiên cố là đem đại pháo ra trước lúc trời tối cho thật gần rồi bắn phá trước khi trời sáng.
Sau khi oanh kích sẽ tấn công bất thình lình bằng bộ binh. Thường thì họ chiếm được chiếc đồn đổ nát ấy mà không mấy thiệt hại.
Việc phối hợp hành động trong hành quân và việc dùng nhiều đại pháo để tấn công đã giảm được nhiều thời gian chiến đấu và cả chiến dịch chinh phạt.
Theo Lư Phụng Các, Tả Tông Đường dùng khoảng 6 năm để chuẩn bị cho việc tây chinh nhưng ông chỉ mất một năm rưỡi là hoàn thành việc thu hồi cả Tân Cương ngoại trừ Y Lê vẫn do Nga chiếm đóng và chỉ trả lại cho Trung Hoa sau khi thương thuyết một thời gian dài.
Sau một thời gian chuẩn bị kỹ càng, tháng 3 năm 1876 Tả Tôn Đường đặt bộ tư lệnh quân Tây chinh ở Túc Châu. Tháng 8 năm 1876, quân Thanh bắt đầu xuất phát với phương châm tiến chậm đánh thắng. Binh sĩ hành quân hơn 2 tháng vượt 2.000 dặm gặp địch là đánh, khẩu phần ăn chỉ có 8 ngày nên trong hành trang ai cũng phải mang theo khoai lang. Mỗi binh sĩ đeo mười mấy cân khoai chạy trên sa mạc nóng bỏng, tinh thần chiến đấu hy sinh quên mình. Quân Thanh do Lưu Cẩm Đường Đạo đài Tây Ninh chỉ huy tiếp cận thành Ô Lỗ Mộc Tề đến tháng 11 thì công hãm thành Mã Nạp Tư Nam (Manasi), tiêu diệt quân A Cổ Bá ở dải biên giới phía bắc, sau đó quân Thanh từ Ô Lỗ Mộc Tề tiến xuống phía nam công hãm thành Đạt Bản, nơi A Cổ Bá tập trung nhiều quân tinh nhuệ, tiêu diệt quân chủ lực của A Cổ Bá tại đây. Sau đó quân Thanh do Trương Diệu chỉ huy tiến đến Khắc Thác Khắc Tôn, Thổ Lỗ Phan. A Cổ Bá tại Khố Nhĩ Lạc (Korla) thế cùng phải tự sát. Tháng 1 năm 1878, Đổng Phúc Tường chiếm lại Vu Điền. Quân Thanh liên tiếp thu hồi các thành Khố Xa, A Khắc Tô (Aksu), Hòa Văn… đến năm 1878 biên giới phía nam hoàn toàn thuộc về Trung Quốc.
Năm 1871 Nga viện cớ thu hồi những vùng đất trước đây đã bị nhà Thanh chiếm, tiến quân vào Y Lê (I-Li), tuyên bố "tạm chiếm Y Lê, đợi khi nào Thanh đình có đủ khả năng thống trị miền đó thì sẽ trả lại". Nhưng 7 năm sau khi Tả Tôn Đường đã bình định được Tân Cương rồi, nhà Thanh xin Nga trả lại Y Lê, Nga thản nhiên nuốt lời, bắt Công sứ Sùng Hậu của nhà Thanh phải kí Điều ước Livadia năm 1879 gồm 18 khoản mà các khoản chính là Thanh phải bồi thường quân phí 280 vạn lạng bạc cho Nga, và cắt nhường Nga miền phú nguyên duy nhất của Y Lê chiếm tới 70% diện tích của Y Lê, cho Nga mở 3 tuyến đường thương mại làm cho dư luận triều đình và dân chúng bất bình. Trương Chi Động dâng sớ phản đối kịch liệt. Từ Hi Thái Hậu lúc đó cầm quyền, không chịu, bãi nhiệm chức vụ của Sùng Hậu, chuẩn bị chiến tranh với Nga, cung cấp thêm 25,6 triệu lạng bạc chiến phí cho Tả Tôn Đường.
Mùa hè năm 1880 Tả Tôn Đường lúc đó đã 68 tuổi điều quân từ Túc Châu tấn công Cáp Mật, sĩ khí quân Thanh rất cao. Thế tấn công của quân Thanh đã hỗ trợ rất nhiều cho ngoại giao nhà Thanh đàm phán với Nga.
Nhờ vào tài năng của nhà ngoại giao Tăng Kỷ Trạch (Công sứ Trung Hoa tại Anh và Pháp) vào ngày 24 tháng 2 năm 1881, hai nước ký kết bản Hiệp ước tại St. Petersburg, theo đó Nga bị bắt buộc hoàn trả cho Trung Hoa một số phần đất chiến lược nằm trong vùng Ili, sau khi đã bị nhượng bởi chữ ký không được cố vấn tốt của Công sứ Sùng Hậu trong Điều ước Livadia năm 1879. Sự thành công vào dịp này của Tăng Kỷ Trạch một phần nhờ ở sự chiến thắng quân sự của Tả Tôn Đường tại Tân Cương và ở sự hậu thuẫn mãnh liệt của Tả Tôn Đường và các nhân vật khác trong các cuộc thương thảo tại Nga.
Sau khi dẹp yên các cuộc khởi nghĩa Tả Tôn Đường đề xuất lên triều đình nhiều chủ trương chính sách thúc đẩy kinh tế văn hóa vùng Tân Cương có tác dụng tích cực đối với việc khai phá vùng biên giới, thành lập các cơ sở sản xuất kiểu mới ở vùng Tây Bắc như: Lan Châu cơ khí chức ni cục (là xưởng dệt len cơ khí đầu tiên của Trung Quốc dùng máy móc của Đức, thành lập năm 1878), Tổng cục tơ tằm A Khắc Tô, Lan Châu chế tạo cục thành lập năm 1871, Tây An cơ khí cục thành lập năm 1869. Nhờ công lao này, Tả Tôn Đường được thăng tước hầu, bổ nhiệm Quân cơ đại thần.
Năm 1912, triều Thanh bị Trung Hoa Dân Quốc thay thế, tuần phủ Viên Đại Hóa (袁大化) chạy trốn. Một thuộc hạ của Viên Đại Hóa là Dương Tăng Tân
(杨增新), đã nắm quyền kiểm soát Tân Cương và nhậm chức trưởng quan nhân
danh Trung Hoa Dân Quốc vào tháng 3 cùng năm. Thông qua các thủ đoạn
chính trị và khôn ngoan cân bằng giữa các cử tri đa sắc tộc, Dương Tăng
Tân duy trì quyền kiểm soát Tân Cương cho đến khi ông bị ám sát vào năm
1928.
Khởi nghĩa Cáp Mật và các cuộc khởi nghĩa khác chống lại người kế nhiệm là Kim Thụ Nhân (金树仁) đã diễn ra vào đầu thập niên 1930 trên khắp Tân Cương, với sự tham gia của người Duy Ngô Nhĩ cùng các sắc dân Đột Quyết khác, cũng như người Hồi. Kim Thụ Nhân đã dùng Bạch vệ để dập tắt cuộc khởi nghĩa. Tại vùng Kashgar vào ngày 12 tháng 11 năm 1933, Cộng hòa Đông Turkestan đã tuyên bố thành lập, sau khi có những tranh luận về việc quốc hiệu nên là "Đông Turkestan" hay "Uyghuristan." Khu vực Cộng hòa Đông Turkistan về mặt lý thuyết bao gồm Kashgar, Khotan và Aksu ở tây nam Tân Cương. Sư đoàn 36 của quân đội Quốc Dân đảng gồm hầu hết là người Hồi đã tiêu diệt quân đội của Đệ nhất Cộng hòa Đông Turkestan trong trận Kashgar (1934), nước Cộng hòa chấm dứt tồn tại sau khi quân Hồi hành quyết hai Emir của Cộng hòa là Abdullah Bughra và Nur Ahmad Jan Bughra. Liên Xô đã xâm lược Tân Cương vào năm 1934. Trong Chiến tranh Tân Cương (1937), toàn bộ tỉnh nằm dưới quyền kiểm soát của quân phiệt Tây Bắc Thịnh Thế Tài, ông cai quản Tân Cương trong thập niên sau đó với sự ủng hộ mật thiết từ Liên Xô. Liên Xô duy trì một căn cứ quân sự tại Tân Cương và triển khai một số cố vấn quân sự và kinh tế tại khu vực. Thịnh Thế Tài đã mời một nhóm người Cộng sản Trung Quốc đến Tân Cương, bao gồm em của Mao Trạch Đông là Mao Trạch Dân, song vào năm 1943 do lo sợ sẽ xảy ra một âm mưu, Thịnh Thế Tài đã cho hành quyết những người cộng sản này, bao gồm cả Mao Trạch Dân.
Khu tự trị Duy Ngô Nhĩ Tân Cương được thành lập vào ngày 1 tháng 10 năm 1955, thay thế tỉnh Tân Cương
Vụ thử thử nghiệm vũ khí hạt nhân đầu tiên của Trung Quốc được tiến hành tại Lop Nur, Tân Cương, vào ngày 16 tháng 10 năm 1964. Một nhà nghiên cứu Nhật Bản suy đoán rằng có thể đã có từ 100.000 đến 200.000 người thiệt mạng do bức xạ từ vụ thử nghiệm hạt nhân, mặc dù khu vực Lop Nur đã không có người định cư lâu dài từ thập niên 1920 Phương tiện truyền thông Trung Quốc phản bác kết luận này song không cung cấp con số thay thế
Trong chia rẽ Trung-Xô, tình trạng căng thẳng giữa hai bên đã dẫn đến các vụ xung đột biên giới có đổ máu và ủng hộ kẻ thù của đối phương. Khi những người cộng sản Afghanistan thân Liên Xô đoạt lấy quyền lực vào năm 1978, mối quan hệ giữa Trung Quốc và những người cộng sản Afghanistan nhanh chóng chuyển sang thù địch. Những người cộng sản thân Liên Xô Afghanistan ủng hộ Việt Nam trong cuộc xung đột với Trung Quốc và cáo buộc Trung Quốc hỗ trợ các chiến sĩ chống cộng Afghanistan. Trung Quốc phản ứng với việc Liên Xô xâm chiếm Afghanistan bằng việc ủng hộ các chiến binh Mujahideen Afghanistan và thiết lập sự hiện diện quân sự gần Afghanistan tại Tân Cương. Trung Quốc mua thiết bị quân sự từ Hoa Kỳ để phòng vệ trước Liên Xô.
Hiện nay tại Tân Cương, khoảng 10 dân tộc trở lên trong đó có người Uyghur (chủ yếu), người Kazakh, người Hồi, người Iran, người Tạng Hồi giáo, người Mông Cổ, người Tatar, người Kyrgyz, người Pakistan, người Tajik, người Uzbek v.v đều theo đạo Hồi, quần chúng theo đạo hơn 10 triệu người, chiếm 56,3% dân số Tân Cương.
Người Mông Cổ ở Tân Cương đa số theo Phật giáo Tây Tạng và một số theo Hồi giáo (do chịu ảnh hưởng từ dân Trung Á), tổng cộng có khoảng 80 nghìn người, Tân Cương có 40 chùa Phật giáo Tây Tạng, gần 30 nghìn người theo Cơ Đốc giáo với 24 nhà thờ. Hiện nay Tân Cương có hơn 4000 người theo Thiên Chúa giáo, 25 nhà thờ và nơi hoạt động Thiên Chúa giáo. Ngoài ra, Tân Cường còn có hơn 100 người Nga theo Chính Thống giáo, có hai nhà thờ.
Đến thế kỷ thứ 7, Tây Tạng trở thành một đế quốc thống nhất, song nhanh chóng phân liệt thành nhiều lãnh thổ. Phần lớn tây bộ và trung bộ Tây Tạng (Ü-Tsang) thường thống nhất (ít nhất là trên danh nghĩa) dưới quyền các chính quyền nối tiếp nhau ở Lhasa, Shigatse, hay những nơi lân cận; các chính quyền này từng có lúc nằm dưới quyền bá chủ của Mông Cổ và Trung Quốc. Các khu vực Kham và Amdo
ở đông bộ thường duy trì cơ cấu chính trị bản địa mang tính phân tán
hơn, được chia thành một số tiểu quốc và nhóm bộ lạc, các khu vực này
thường phải chịu sự kiểm soát trực tiếp hơn từ Trung Hoa; và hầu hết
chúng cuối cùng được hợp nhất vào các tỉnh Tứ Xuyên và Thanh Hải. Ranh giới hiện nay của Tây Tạng nhìn chung được thiết lập nên vào thế kỷ 18 Sau khi triều Thanh sụp đổ
vào năm 1912, các binh lính Thanh bị giải giáp và được hộ tống ra khỏi
Tây Tạng địa phương (Ü-Tsang). Tây Tạng địa phương tuyên bố độc lập vào
năm 1913. Sau đó, chính phủ Lhasa đoạt lấy quyền kiểm soát phần phía tây
của tỉnh Tây Khang. Khu vực duy trì tình trạng tự quản cho đến năm 1951, khi Quân đội Cộng sản Trung Quốc tiến vào Tây Tạng, Tây Tạng hợp nhất vào Cộng hòa Nhân dân Trung Hoa, và chính phủ Tây Tạng bị bãi bỏ sau một cuộc nổi dậy thất bại vào năm 1959.
Ngày nay, chính phủ Trung Quốc định ra Khu tự trị Tây Tạng ở tây bộ và
trung bộ của Tây Tạng, còn các khu vực phía đông hầu hết thuộc về các
tỉnh Tứ Xuyên và Thanh Hải. Có những căng thẳng liên quan đến tình trạng
chính trị của Tây Tạng trong khi có các nhóm người Tạng lưu vong đang hoạt động.
Kinh tế Tây Tạng chủ yếu là nông nghiệp tự cấp, song du lịch cũng trở thành một ngành kinh tế nổi lên trong các thập niên gần đây. Tôn giáo chủ yếu ở Tây Tạng là Phật giáo Tây Tạng, cùng với đó là tôn giáo bản địa Bön (Bön ngày nay tương đồng với Phật giáo Tây Tạng ) cùng với các thiểu số Hồi giáo và Cơ Đốc giáo. Phật giáo Tây Tạng có ảnh hưởng mang tính chủ yếu đối với nghệ thuật, âm nhạc, lễ hội của khu vực. Kiến trúc Tạng phản ánh ảnh hưởng từ kiến trúc Hán và kiến trúc Ấn. Các loại lương thực chủ yếu tại Tây Tạng là đại mạch, thịt bò Tạng, và trà bơ.
</noinclude>, mặc dù ban đầu nó chỉ có nghĩa là chỉ vùng trung bộ quanh Lhasa- nay được gọi là Ü trong tiếng Tạng. Cách phát âm trong tiếng Tạng tiêu chuẩn của từ Bod, [pʰøʔ˨˧˨], được chuyển tự thành Bhö theo phương pháp Tournadre, Bö theo phương pháp THL, và Poi theo bính âm tiếng Tạng. Một số học giả cho rằng các văn bản đầu tiên đề cập đến Bod "Tây Tạng" là những miêu tả về người Bautai trong các tác phẩm Chuyến đi vượt Hồng Hải (thế kỷ 1 CN) và Geographia (Ptolemy, thế kỷ 2 CN), bản thân nó lại có nguồn gốc từ Bhauṭṭa trong tiếng Phạn.
Từ "Tây Tạng" trong tiếng Hán bắt nguồn từ việc hoán dụ tên gọi khu vực Tsang quanh Shigatse, cộng thêm tiền tố "Tây". Con người, ngôn ngữ, và văn hóa Tây Tạng đến từ bất cứ nơi đâu cũng đều được gọi là "Tạng", song khái niệm địa lý của Tây Tạng tại Trung Quốc nay thường chỉ giới hạn trong Khu tự trị Tây Tạng. Thuật ngữ Tây Tạng được đặt ra dưới thời Gia Khánh Đế (1796–1820).
Tên Thổ Phồn lần đầu tiên được viết bằng Hán tự bằng "土番" vào thế kỷ 7 (Lý Thái) và bằng 吐蕃 vào thế kỷ 10 (Đường thư mô tả sứ thần năm 608–609 do Tán phổ Nang Nhật Luân Tán phái đến chỗ Tùy Dạng Đế). Trong tiếng Hán Trung cổ, do William H. Baxter tái dựng, 土番 được đọc là thux-phjon và 吐蕃 được đọc là thux-pjon (với x thể hiện thanh điệu). Các tên tiếng Hán khác dùng để chỉ Tây Tạng bao gồm Ô Tư Quốc (烏斯國), Ô Tư Tạng (烏斯藏), Đồ Bá Đặc (圖伯特), và Đường Cổ Thắc (唐古忒).
Tiếng Tạng có nhiều phương ngữ địa phương thường không hiểu lẫn nhau. Nó được sử dụng trên khắp cao nguyên Tây Tạng và Bhutan, cũng được nói tại một số nơi ở Nepal và bắc Ấn Độ, như ở Sikkim. Nhìn chung, các phương ngữ ở trung bộ Tây Tạng (bao gồm Lhasa), Kham, Amdo và một số khu vực nhỏ hơn được xem là các phương ngữ tiếng Tạng. Các dạng khác, đặc biệt là Dzongkha, Sikkim, Sherpa, và Ladakh, được những người sử dụng chúng xem là các ngôn ngữ riêng biệt, phần lớn là vì lý do chính trị.
Mặc dù khẩu ngữ tiếng Tạng thay đổi tùy theo khu vực, song văn viết tiếng Tạng dựa trên ngôn ngữ Tạng cổ điển thì đồng nhất rộng khắp. Điều này có thể là do ảnh hưởng lâu dài của Thổ Phồn. Tiếng Tạng có chữ viết riêng, chung với tiếng Ladakh và tiếng Dzongkha, có nguồn gốc từ chữ Brāhmī từ Ấn Độ cổ đại.
Loài người định cư trên cao nguyên Tây Tạng ít nhất là từ 21.000 năm trước Các cư dân này phần lớn bị thay thế vào khoảng năm 3000 TCN bởi những người nhập cư thời đại đồ đá mới
đến từ miền Bắc Trung Quốc. Tuy nhiên, có một sự "di truyền cục bộ liên
tục giữa các cư dân thời đại đồ đá cũ và những cư dân Tạng hiện đại"
Bản văn tiếng Tạng lâu đời nhất xác định văn hóa Tượng Hùng (Zhangzhung) là của một nhóm người nhập cư từ khu vực Amdo đến nơi mà nay là Guge ở tây bộ Tây Tạng. Tượng Hùng được đánh giá là khởi nguồn ban đầu của tôn giáo Bön. Vào thế kỷ 1 TCN, một vương quốc láng giềng nổi lên ở thung lũng Yarlung, và quốc vương Yarlung là Drigum Tsenpo (Chỉ Cống Tán Phổ) cố gắng loại bỏ ảnh hưởng của Tượng Hùng bằng việc trục xuất các giáo sĩ Bön khỏi Yarlung Ông bị ám sát và Tượng Hùng vẫn tiếp tục tống trị khu vực cho đến khi bị Songtsen Gampo (Tùng Tán Cán Bố) sáp nhập vào thế kỷ thứ 7.
Trước thời Tùng Tán Cán Bố, các quân chủ Tây Tạng mang tính thần thoại hơn là thực tế, và không có đủ bằng chứng về việc họ có thực sự tồn tại hay không
Dưới thời một số vị quân chủ tiếp theo, Phật giáo trở thành quốc giáo và thế lực của Thổ Phồn thậm chí còn bao trùm lên nhiều khu vực rộng lớn ở Trung Á, từng thực hiện các cuộc xâm nhập lớn vào lãnh thổ Đại Đường, thậm chí từng tiến đến kinh sư Trường An vào cuối năm 763. Tuy nhiên, Thổ Phồn chỉ cò thể chiếm được Trường An trong 15 ngày, sau đó họ bị liên minh Đường cùng Hồi Cốt đánh bại.
Vương quốc Nam Chiếu nằm dưới quyền kiểm soát của Thổ Phồn từ năm 750 đến 794, người Nam Chiếu sau thoát khỏi quyền bá chủ của Thổ Phồn và giúp Đường đánh bại Thổ Phồn.
Năm 747, uy thế của Thổ Phồn bị lung lay do chiến dịch của tướng Đường Cao Tiên Chi, người này muốn tái lập tuyến đường thông thương trực tiếp giữa Trung Á và Kashmir. Năm 750, Thổ Phồn mất hầu hết thuộc địa ở Trung Á vào tay Đường. Tuy nhiên, sau khi Cao Tiên Chi thất bại trước vương triều Abbas của người Ả Rập trong trận Talas (751) và Đường xảy ra nội loạn, ảnh hưởng của Đường suy giảm nhanh chóng và ảnh hưởng của Thổ Phồn được phục hồi.
Vào năm 821/822, Thổ Phồn và Đường ký kết hòa ước, trong đó xác định chi tiết biên giới giữa hai bên, chùng được khắc song ngữ trên một cột đá nằm bên ngoài chùa Đại Chiêu (Jokhang) ở Lhasa. Thổ Phồn tiếp tục duy trì vị thế là một đế quốc Trung Á cho đến giữa thế kỷ thứ 9, khi một cuộc nội chiến tranh giành quyền kế vị dẫn đến sự sụp đổ của Thổ Phồn. Thời kỳ sau đó, Thổ Phồn bị phân liệt giữa các quân phiệt và bộ lạc, không có quyền lực tập trung.
Người Tây Tạng duy trì thẩm quyền hư danh đối với các vấn đề tôn giáo và chính trị khu vực, trong khi người Mông Cổ quản lý cấu trúc và hành chính tại khu vực, được củng cố bằng các can thiệp quân sự song việc này hiếm khi xảy ra. Đây là tình trạng "cấu trúc hai chính quyền" dưới trướng hoàng đế Nguyên, trong đó quyền lực chính thuộc về người Mông Cổ. Vương tử Khoát Đoan (Khuden) giành được quyền lực thế tục tại Tây Tạng vào thập niên 1240 và ủng hộ Tát Ca Ban Chí Đạt (Sakya Pandita), nơi người này tu hành trở thành thủ phủ của Tây Tạng.
Quyền kiểm soát của triều Nguyên đối với Tây Tạng kết thúc khi họ bị triều Minh lật đổ ở Trung Nguyên, và Đại Tư Đồ Giáng Khúc Kiên Tán (Tai Situ Changchub Gyaltsen) nổi dậy chống lại người Mông Cổ Sau cuộc nổi dậy, Đại Tư Đồ Giáng Khúc Kiên Tán thành lập nên triều đại Phách Mộc Trúc Ba (Phagmodrupa), và tìm cách giảm bớt ảnh hưởng của Nguyên đối với văn hóa và chính trị Tạng
Năm 1578, Yêm Đáp Hãn (Altan Khan) của Thổ Mặc Đặc bộ Mông Cổ trao cho Sách Nam Gia Thố (Sonam Gyatso)- một Lạt-ma có địa vị cao của Cách-lỗ phái, danh hiệu Đạt-lai Lạt-ma (Dalai Lama); Dalai là từ dịch sang tiếng Mông Cổ của "Gyatso", nghĩa là "đại dương".
Những người Âu đầu tiên đến Tây Tạng là những nhà truyền giáo người Bồ Đào Nha António de Andrade và Manuel Marques vào năm 1624. Họ được Quốc vương và vương hậu nước Cổ Cách (Guge) nghênh đón, và được phép xây dựng một nhà thờ và giới thiệu đức tin Cơ Đốc giáo. Quốc vương Cổ Cách hăng hái chấp nhận Cơ Đốc giáo để đối phó với ảnh hưởng tôn giáo của Cách-lỗ phái đang phát triển mạnh và để làm đối trọng với các đối thủ tiềm năng của mình cũng như củng cố địa vị. Toàn bộ các nhà truyền giáo bị trục xuất vào năm 1745.
Trong nhiều thập niên, Tây Tạng có được tình trạng hòa bình, song vào năm 1792, hoàng đế Thanh khiển một đội quân lớn đến Tây Tạng nhằm đánh đuổi quân Nepal xâm lược. Triều Thanh lại tái tổ chức chính quyền Tây Tạng, lần này là thông qua một bản kế hoạch gọi là "Tân đính Tây Tạng chương trình nhị thập cửu điều". Các đơn vị quân Thanh đồn trú cũng được thiết lập gần biên giới với Nepal. Tây Tạng do người Mãn thống trị trong các giai đoạn khác nhau vào thế kỷ 18, và những năm ngay sau những chỉnh lý 1792 là thời kỳ đỉnh cao của quyền lực của đại diện triều đình Thanh; song không có nỗ lực nào nhằm biến Tây Tạng thành một tỉnh của Đại Thanh
Năm 1834, Đế quốc Sikh xâm lược và thôn tính Ladakh, một khu vực thuộc văn hóa Tây Tạng mà khi đó là một vương quốc độc lập. Bảy năm sau đó, một đội quân Sikh do tướng Zorawar Singh chỉ huy tiến vào xâm chiếm tây bộ Tây Tạng từ Ladakh, khởi đầu Chiến tranh Thanh-Sikh. Một đội quân Thanh-Tạng đẩy lui quân xâm lược song sau đó bị đánh bại khi truy kích quân Sikh đến Ladakh. Chiến tranh kết thúc với việc ký kết hòa ước giữa Thanh và Sikh.
Do triều Thanh suy yếu, thẩm quyền của họ đối với Tây Tạng cũng dần suy yếu theo; đến giữa thế kỷ 19, ảnh hưởng của triều Thanh chỉ còn rất ít. Thẩm quyền của triều Thanh chỉ còn mang tính biểu tượng thay vì thực chất vào cuối thế kỷ 19 mặc dù trong thập niên 1860 người Tạng vì những lý do riêng vẫn tiếp tục lựa chọn việc nhấn mạnh thẩm quyền mang tính biểu tượng của triều Thanh và thể hiện rằng điều này có vẻ đáng kể
Thời kỳ này, Tây Tạng cũng xuất hiện một số liên hệ với Dòng Tên và Dòng Phanxicô từ châu Âu, và vào năm 1774 một nhà quý tộc người Scotland là George Bogle đến Shigatse để dò xét tiềm năng thương mại cho Công ty Đông Ấn Anh.[40] Thế kỷ 19, Đế quốc Anh xâm lấn từ miền Bắc Ấn Độ vào khu vực dãy Himalaya, Vương quốc Afghanistan và Đế quốc Nga khuếch trương ra Trung Á và họ nghi ngờ ý định của nhau đối với Tây Tạng.
Năm 1904, Anh xâm lược Tây Tạng do lo sợ rằng người Nga sẽ khuếch trương thế lực đến khu vực này, Anh hy vọng rằng việc đàm phán với Đạt-lại Lạt-ma thứ 13 sẽ có hiện quả hơn là với các đại diện của triều đình Bắc Kinh Khi quân Anh tiến đến Tây Tạng, một cuộc đối đầu vũ trang giữa hai bên dẫn đến vụ thảm sát Chumik Shenko, sau đó Francis Younghusband áp đặt một hiệp định mà sau đó bị bãi bỏ, và được thay thế bởi Hiệp ước giữa Anh Quốc và Đại Thanh vào năm 1906.
Năm 1910, triều đình Thanh khiển Triệu Nhĩ Phong đem quân đến Tây Tạng để thiết lập quyền cai quản trực tiếp của triều đình và hạ chiếu phế bỏ Đạt-lại Lạt-ma 13- người chạy trốn sang Ấn Độ thuộc Anh. Triệu Nhĩ Phong đánh bại quân Tây Tạng và trục xuất lực lượng của Đạt-lại Lạt-ma khỏi Tây Tạng.
Khi các nhiếp chính mắc các sơ suất trong việc cai quản vào thập niên 1930 và 1940, chính phủ Quốc dân của Trung Quốc nhân cơ hội này để khuếch trương phạm vi thế lực vào lãnh thổ Tây Tạng.
Sau khi chính phủ của Đạt-lai Lạt-ma chạy đến Dharamsala, Ấn Độ, trong Nổi dậy Tây Tạng 1959, họ thành lập một chính phủ lưu vong đối nghịch. Sau đó, chính phủ Bắc Kinh từ bỏ hiệp nghị và bắt đầu thực hiện các cải cách xã hội và chính trị từng bị tạm dừng. Trong Nạn đói lớn, có khoảng 200.000 đến 1.000.000 người Tây Tạng thiệt mạng, và xấp xỉ 6.000 tu viện bị phá hủy trong Cách mạng Văn hóa. Năm 1962, Trung Quốc và Ấn Độ giao chiến trong cuộc chiến ngắn ngủi do tranh chấp lãnh thổ. Mặc dù giành chiến thắng song các binh sĩ Trung Quốc vẫn rút về phía bắc của đường McMahon, Nam Tây Tạng vẫn thuộc quyền quản lý của Ấn Độ.
Năm 1980, Tổng bí thư Hồ Diệu Bang thăm Tây Tạng, và mở ra một giai đoạn tự do hóa xã hội, chính trị và kinh tế Đến cuối thập niên, các tăng ni tại tu viện Drepung và Sera bắt đầu kháng nghị và yêu cầu độc lập, do vậy chính phủ Trung ương dừng việc cải cách lại và bắt đầu một chiến dịch chống ly khai.
Tây Tạng nằm trên cao nguyên Tây Tạng, cao trung bình trên 4200 m. Phần lớn dãy Himalaya nằm trong địa phận Tây Tạng. Đỉnh cao nhất của dãy núi này, đỉnh Everest, nằm trên biên giới với Nepal.
Khí hậu ở đây rất khô suốt 9 tháng trong năm. Có những dãy núi tuyết vĩnh cửu cao 5.000-7.000 m. Các hẻm núi phía tây nhận được một lượng nhỏ tuyết mỗi năm nhưng vẫn có thể dùng được quanh năm. Nhiệt độ thấp là chủ đạo trong khu vực này, trong đó sự hoang vắng lạnh lẽo đến tẻ nhạt bởi không có một loài cây nào ngoài một vài bụi cây rậm và thấp, và gió thổi ngang qua đồng bằng khô cằn mênh mông không hề bị cản trở. Gió mùa từ Ấn Độ Dương gây ra một số ảnh hưởng ở phía đông Tây Tạng. Phía bắc Tây Tạng có nhiệt độ cao trong mùa hè và lạnh khủng khiếp về mùa đông.
Tây Tạng trong lịch sử bao gồm các khu vực sau:
Một số con sông chính có đầu nguồn ở Tây Tạng bao gồm:
Tuyến đường sắt lên Tây Tạng là công trình xây dựng mang công nghệ phức tạp, với đường ray đặc biệt có khả năng ổn định trong điều kiện thời tiết vô cùng khắc nghiệt. Ga đầu của tuyến đường sắt nổi tiếng này là thành phố Golmud thuộc tỉnh Thanh Hải và ga cuối là thủ phủ Lhasa của Tây Tạng.
Các toa tàu được thiết kế như khoang máy bay để bảo vệ hành khách trước độ cao quá lớn, với điểm cao nhất của công trình lên tới 5.072 mét so với mặt nước biển. Không khí bên trong được điều hòa tự động để cân bằng tại những nơi thiếu dưỡng khí mà tàu chạy qua.
Trung Quốc tuyên bố tuyến đường sắt Thanh-Tạng có tổng chi phí xây dựng 4,2 tỷ USD và dài 1.140 km này là một kỳ tích vĩ đại về công nghệ, đem lại cơ hội phát triển to lớn cho một khu vực mênh mông hùng vĩ.
Chính phủ Trung Quốc đang có kế hoạch mở rộng tuyến đường sắt cao nhất thế giới vừa được khánh thành, nhằm đưa công trình được coi là kỳ tích xây dựng này vươn tới thành phố lớn thứ hai ở Tây Tạng sau Lhasa là Xigaze.
Thành phố Xigaze cao hơn mực nước biển 3.800 mét và nằm gần biên giới với Ấn Độ. Đây là nơi ngự trị truyền thống của Ban Thiền Lạt Ma, một trong những lãnh đạo tinh thần quan trọng của Phật giáo Tây Tạng.
Xigaze còn có cách viết khác là Shigatse có dân số 80.000 người. Vùng đất này tọa lạc tại nơi hợp lưu của hai dòng sông nổi tiếng về tâm linh là Yarlong Tsangpo và Nuangchu, ở phía tây của Khu tự trị Tây Tạng.
Theo Tân Hoa xã, tuyến đường sắt sẽ được kéo dài thêm 270 km từ Lhasa tới Xigaze và hoàn thành trong vòng 3 năm. Một quan chức địa phương là Yu Yungui nhấn mạnh: "Đường sắt sẽ tạo ra cơ hội lớn cho sự phát triển kinh tế xã hội của Xigaze".
Tình trạng cách ly đặc biệt của Tây Tạng về địa lý khiến kinh tế vùng đất này nghèo nàn. Hệ thống giáo dục và tuổi thọ trung bình của người dân tại đây thấp hơn nhiều so với phần còn lại của Trung Quốc. Nhưng chính sự cách ly đó giúp bảo tồn nền văn hoá đặc trưng và lối sống không giống đâu trên thế giới này của Tây Tạng.
Sự xuất hiện của hệ thống đường sắt sẽ đem đến thay đổi dữ dội mà Bắc Kinh đánh giá là sẽ khai phá Tây Tạng, mang đến sự phồn vinh cho người dân địa phương. Nhưng những người chỉ trích công trình này thì cho rằng, nó sẽ là hồi chuông báo tử cho nền văn hoá đặc hữu của Tây Tạng.
Trước khi có đường sắt, chỉ có hai cách đến được với thủ phủ Lhasa. Đó là đáp một chuyến bay rất hao tiền để rồi dựng tóc gáy mỗi khi nó hạ cánh xuống Tây Tạng. Cách thứ hai là đi trên những chuyến xe buýt nêm chặt người và mất 3 ngày 3 đêm ròng rã trên những con đường núi nguy hiểm và tổn sức.
Nhưng rất nhiều chiếc xe như vậy cùng hành khách của nó đã kết thúc cuộc hành trình dưới một khe núi sâu nào đó có vô số trên đường.
Có nhiều ý kiến khác nhau về tác động của tuyến đường sắt đối với Tây Tạng. Nhiều người địa phương cho rằng: "Đó là một ý tưởng tốt. Nó sẽ giúp chúng tôi mang len ra thị trường dễ dàng hơn. Hiện chúng tôi phải thuê xe tải để chuyên chở, nhưng với tàu hoả nó sẽ rẻ và dễ hơn nhiều".
Tuy nhiên, các nhà môi trường học lại lo ngại về những ảnh hưởng của tuyến đường sắt đến con đường di trú của loài linh dương Tây Tạng quý hiếm. Họ cũng lo lắng cho một hệ sinh thái rất mong manh, mà một khi bị phá hỏng sẽ phải mất cả một thế hệ để sửa sai.
Theo dòng lịch sử, dân cư Tây Tạng chủ yếu là tộc người Tạng. Các tộc người khác ở Tây Tạng bao gồm người Menba (Monpa), người Lhoba, người Mông Cổ và người Hồi.
Việc đưa ra tỷ lệ người Trung Quốc gốc Hán ở Tây Tạng là một vấn đề chính trị nhạy cảm. Trong những năm từ thập niên 1960 đến thập niên 1980, nhiều tù nhân (trên 1 triệu, theo Harry Wu) đã được đưa vào các trại cải tạo ở Amdo (Thanh Hải) và họ đã ở lại sau khi được trả tự do. Từ những năm 1980, sự tự do hóa kinh tế ngày càng tăng và những thay đổi bên trong khu vực đã tạo ra một luồng di cư của nhiều người Hán tới Tây Tạng để tìm kiếm việc làm hay định cư, mặc dù con số thực của việc di cư dân số này vẫn là điều gây tranh cãi. Chính quyền Tây Tạng lưu vong ước tính con số này là 7,5 triệu (đối lại chỉ có 6 triệu người Tạng), coi điều này như là kết quả của chính sách tích cực trong việc làm mất bản sắc dân tộc của người Tạng và thu nhỏ bất kỳ cơ hội nào của về độc lập chính trị của Tây Tạng, và như thế đã vi phạm Công ước Geneva năm 1946 là ngăn cấm việc định cư của các lực lượng chiếm đóng. Chính quyền Tây Tạng lưu vong đặt dấu hỏi trên mọi con số thống kê được đưa ra bởi CHNDTH, bởi vì họ đã không tính đến các thành viên của Giải phóng quân nhân dân đồn trú ở Tây Tạng (hoặc gia đình họ), hoặc một lượng lớn dân di cư không đăng ký. Tuyến đường sắt Thanh-Tạng (Tây Ninh tới Lhasa) cũng là sự quan ngại lớn, vì họ cho rằng nó sẽ làm thuận tiện hơn cho việc di dân.
Tuy nhiên, chính phủ CHNDTH không nhận mình là lực lượng chiếm đóng
và đã kịch liệt phản đối các luận điểm về mất bản sắc dân tộc. CHNDTH
cũng không thừa nhận các biên giới của Tây Tạng như Chính quyền Tây Tạng
lưu vong đã phát ngôn, cho rằng đó là âm mưu có tính toán nhằm tính cả
những khu vực phi-Tạng mà những người không là người Tạng đã sống nhiều
thế hệ (chẳng hạn như khu vực Tây Ninh và thung lũng Chaidam)
để gia tăng nhận thức của người Tạng rằng lãnh thổ của người Tạng là
lớn hơn Khu tự trị Tây Tạng hiện nay. Thống kê chính thức của CHNDTH
thông báo rằng 92% dân số ở Khu tự trị Tây Tạng là tộc người Tạng, mặc dù tỷ lệ này thấp hơn một cách đáng kể so với những dữ liệu đối với Amdo và đông Kham,
bởi vì người Trung Quốc gốc Hán không phân bổ đều trên toàn bộ Tây Tạng
lịch sử. Trong khu tự trị Tây Tạng, phần lớn người Hán sống ở Lhasa.
Các chính sách kiểm soát dân số như "mỗi gia đình chỉ có một con" chỉ
áp dụng đối với người Hán, mà không áp dụng với các dân tộc thiểu số như
người Tạng. CHNDTH nói rằng chính quyền đang cố gắng bảo vệ các văn hóa
truyền thống Tây Tạng; họ cũng xây dựng tuyến đường sắt Thanh-Tạng,
phục hồi cung điện Potala và nhiều dự án khác như là một phần của chiến lược Phát triển miền tây Trung Quốc,
là một cố gắng to lớn và đắt tiền của phần miền đông giàu có hơn của
Trung Quốc đối với Tây Tạng nhằm phát triển các khu vực miền tây nghèo
hơn.
Bài chính: Văn hóa Tây Tạng
Tây Tạng là trung tâm truyền thống của Phật giáo Tây Tạng, một dạng đặc biệt của Mật Tông (Vajrayana). Phật giáo đứng đầu trong các tôn giáo và mang đậm dấu ấn trong văn hóa ở Tây Tạng. Đây là nơi sinh ra Mật Tông. Một tông phái của Phật giáo với văn hóa và phong cách đa dạng như Quán Đảnh, Trì Chú cùng với các vị Đạt-Lai-Lạt-Ma (Phật sống) được nhiều người tôn thờ. Hiện nay, khu tự trị Tây Tạng tổng cộng có hơn 1700 chùa chiền tổ chức hoạt động Phật giáo Tây Tạng, có khoảng 46 nghìn tăng ni.
Phật giáo Tây Tạng không những chỉ được phổ biến ở Tây Tạng; nó còn là tôn giáo thịnh hành ở Mông Cổ và phổ biến mạnh trong tộc người Buryat ở miền nam Siberia. Tây Tạng cũng là quê hương của một tôn giáo nguyên thủy gọi là Bön (Bon). Hàng loạt các tiếng địa phương của tiếng Tạng được nói trên cả khu vực. Người Tạng viết bằng chữ Tạng.
Trong các thành phố Tây Tạng có các cộng đồng nhỏ người Hồi giáo, được biết đến như là Kachee (Kache), mà tổ tiên họ là những người di cư từ ba khu vực chính: Kashmir (đối với người Tây Tạng cổ là Kachee Yul), Ladakh và các nước của người Turk ở Trung Á. Ảnh hưởng của Hồi giáo ở Tây Tạng cũng đến từ Ba Tư. Ở đây cũng có các cộng đồng Hồi giáo Trung Quốc (gya kachee) mà tổ tiên của họ là dân tộc Hồi Trung Quốc. Người ta cho rằng những người Hồi giáo di cư từ Kashmir và Ladakh đã đến Tây Tạng vào khoảng thế kỷ 12. Dần dần các cuộc hôn nhân và các mối quan hệ xã hội đã dẫn đến sự tăng dân số thành cộng đồng đáng kể xung quanh Lhasa. Hiện Hồi giáo ở đây có 4 Thánh đường với số tín đồ theo đạo khoảng 3000 người.
Thiên Chúa giáo có 1 nhà thờ Thiên Chúa giáo với người theo đạo hơn 700 người.
Tây Tạng có nhiều danh lam thắng cảnh và một số phong tục tập quán
lạ. Điển hình trong các phong tục là làm Mạn Đà La, tức là các vòng tròn bằng cát nhuộm màu để làm ra đủ loại hình thù hay và đẹp. Cung điện Potala, trước đây là nơi ở của các Đạt Lai Lạt Ma, là di sản thế giới.
Người Duy Ngô Nhĩ (chữ Hán: 維吾爾), còn gọi là Uyghur ("Uy-gư-rư", tiếng Duy Ngô Nhĩ: ئۇيغۇر), là một dân tộc Trung Á sống chủ yếu ở khu tự trị Tân Cương, Trung Quốc. Các cộng đồng tha hương người Duy Ngô Nhĩ có mặt tại Siberi (Nga), Đức, Thổ Nhĩ Kỳ và các quốc gia Trung Á như Pakistan, Kazakhstan, Kyrgyzstan, Mông Cổ, Uzbekistan. Họ cũng sống tại huyện Đào Nguyên trong địa cấp thị Thường Đức tỉnh Hồ Nam và các khu phố của người Duy Ngô Nhĩ cũng có mặt tại các một số thành phố lớn ở Trung Quốc như Bắc Kinh và Thượng Hải
Tiếng Việt còn gọi dân tộc này là Hồi Ngột.
Người Uyghur mang trong mình dòng máu pha trộn giữa đại chủng Á và đại chủng Âu. Tổ tiên của họ là người Hồi Hột từng là một thế lực đáng kể ở phía bắc Trung Quốc từ thời Đường tới thời Tống. Tôn giáo chính hiện nay của họ là Hồi giáo. Người Uyghur giỏi sản xuất nông nghiệp, làm đồ thủ công và buôn bán.
Nhà Thanh điều động một lực lượng quân lớn dưới quyền chỉ huy của tướng Tả Tông Đường tấn công Đông Turkestan năm 1876. Lo ngại khả năng Nga hoàng bành trướng sang Đông Turkestan, Anh ủng hộ quân Mãn Châu bằng cách cung cấp các khoản vay thông qua nhà băng Anh (phần lớn qua Boston Bank, HSBC đặt tại Hồng Kông). Sau cuộc xâm lược này, Đông Turkestan bị đổi tên thành "Tân Cương", nghĩa là "cương vực mới", và bị sáp nhập vào đế quốc Mãn Châu ngày 18 tháng 11 năm 1884, trở thành một tỉnh của Trung Quốc.
Những người đấu tranh cho nền độc lập của người Uyghur tiến hành vài cuộc nổi dậy chống lại sự cai trị hậu Thanh của lãnh chúa quân phiệt Thịnh Thế Tài và Quốc dân đảng. Hai lần liền, trong các năm 1933 và 1944, người Uyghur nổi dậy nhưng đều bị thất bại trong nỗ lực thiết lập các quốc gia độc lập: Cộng hòa Đông Turkestan, và Cộng hòa Uyghurstan, hoặc là Cộng hòa Hồi giáo Đông Turkestan.
Cộng hòa Đông Turkestan có tính thế tục, xã hội chủ nghĩa và đa sắc tộc, với những người sáng lập bao gồm người Kazakh, Uzbek, Hán, Kyrgyz, Nga, cũng như Uyghur, và được Joseph Stalin ủng hộ.
Năm 1949, sau khi phe Quốc gia tại Trung Quốc thất trận, các nhà lãnh đạo Đông Turkestan chấp thuận hình thức hợp bang với Cộng hòa Nhân dân Trung Hoa dưới sự lãnh đạo của Mao Trạch Đông. Tuy nhiên, một vụ tai nạn máy bay khiến cho phần lớn ban lãnh đạo Cộng hòa Đông Turkestan tử nạn trên đường tới Bắc Kinh đàm phán điều kiện thành lập hợp bang. Vụ rơi máy bay này có lúc được cho là âm mưu của Mao Trạch Đông, vì ngay sau khi vụ tai nạn xảy ra, tướng Vương Chấn nhanh chóng hành quân vượt sa mạc vào Tân Cương, đàn áp lực lượng thân Quốc dân đảng và các cuộc nổi dậy của người thiểu số.
Bộ phận lãnh đạo còn lại của Cộng hòa Đông Turkestan dưới quyền tướng Saifuddin Azizi nhanh chóng qui thuận các điều kiện Mao Trạch Đông đặt ra, biến Tân Cương thành Khu tự trị dân tộc Duy Ngô Nhĩ Tân Cương, quân đội thì sáp nhập vào Quân giải phóng Nhân dân Trung Quốc, Saifuddin Azizi thì nắm chức vụ bí thư đảng cộng sản tại đây. Rất nhiều người trung thành với Cộng hòa Đông Turkestan, bất mãn với sự phản bội của Saifuddin, đi tị nạn tại Thổ Nhĩ Kỳ và các quốc gia phương Tây. Tuy nhiên nhiều người khác ở lại, tổ chức các hoạt động chống đối nhằm tái lập một quốc gia độc lập tại Tân Cương. Không bao lâu sau đó, tên gọi Đông Turkestan bị xóa bỏ bởi sự kiểm duyệt của chính quyền Trung Quốc.
-Khoảng cuối thế kỷ này, thể chế chính trị như hiện nay ở Trung Quốc sẽ không còn, đánh dấu kết thúc kiểu thể chế: "Đảng (cộng sản) lãnh đạo, nhà nước quản lý, nhân dân làm chủ"!
-Sự biến ấy được phát động từ một người thuộc nội bộ ĐCS Trung Quốc, bắt nguồn từ sự chín muồi về nhận thức triết học.
-Việt Nam ăn theo!
---------------------------------------------------------------------
(ĐC sưu tầm trên NET)
Hai sự kiện đáng kể về Trung Quốc
Posted by adminbasam on 27/06/2016
Blog VOA
Bùi Tín
26-6-2016
Mấy ngày nay có hai sự kiện gây tiếng vang lớn từ Trung Quốc. Một là tin từ Hồng Kông và từ báo mạng Đại Kỷ Nguyên báo tin, đêm 10/6 ông Giang Trạch Dân, nguyên Tổng bí thư đảng CSTQ đã bị bắt tại nhà riêng, hiện bị giam giữ tại một nhà giam đặc biệt ở Thượng Hải. Trước đó, hai con trai của ông Giang là Giang Miên Hằng và Giang Miên Khang, lãnh đạo các ngành thông tin, giao thông ở Thượng Hải, cũng đã bị giam. Thượng Hải vốn là địa bàn ảnh hưởng lớn nhất của phe phái Giang trong mấy chục năm nay.
Giang Trạch Dân là con hổ lớn nhất – Vương Hổ – bị sa lưới trong chiến dịch ‘’Đả hổ diệt ruồi’’ do Tập Cận Bình chủ trương từ hai năm nay. Hơn 60 vạn cán bộ, trong đó có hơn 20 vạn cán bộ cao cấp trong đảng CS và bộ máy Nhà nước Trung Cộng đã bị truy tố và xét xử.
Lần đầu tiên một số Ủy viên Thường vụ Bộ chính trị xưa nay được coi là bất khả xâm phạm bị truy tố và vào tù. Chu Vĩnh Khang, trùm dầu mỏ và trùm an ninh đã bị vào tù. Bạc Hy Lai bị tù chung thân. Tướng Từ Tài Hậu bị chết trong tù. Tướng Quách Bá Hùng từng là phó bí thư Quân ủy TƯ bị tống giam.
Giang Trạch Dân là nhân vật cao cấp nhất cùng cả phe nhóm Thượng Hải với hệ thống gia đình trị của ông ta sa lưới là đòn quyết định của Tập Cận Bình theo phương châm nhổ cỏ tận gốc, giữa lúc có tin Giang đang chuẩn bị một cú ‘đảo chính cung đình’’. Có hai nhân vật quan trọng đang có nguy cơ bị quét tiếp là nguyên Chủ tịch nước Tăng Khánh Hồng và Ủy viên thường vụ Bộ chính trị hiện tại chức Lưu Vân Sơn phụ trách ngành Tuyên huấn và được coi là người của Giang.
Hiện nay dư luận TQ tập trung chờ đợi việc gì sẽ xảy ra sau khi nhóm Giang bị sa lưới toàn bộ? Sẽ có phiên tòa tối cao xét xử công khai vụ án cực lớn ‘’Âm mưu đảo chính trước Đại hội 18, nhằm ngăn chặn Tập Cận Bình lên thay Hồ Cẩm Đào để đưa Bạc Hy Lai lên ‘’, trong đó Giang là kẻ chủ mưu, cùng Chu Vĩnh Khang, Bạc Hy Lai, Tăng Khánh Hồng, Từ Tài Hậu , Quách Bá Hùng … là tòng phạm chính.
Vấn đề quan trọng nhất là từ vụ án này, số phận của đảng CSTQ sẽ ra sao? Chính Tập Cận Bình đã than vãn là Quân Giải phóng TQ đã bị hư hỏng từ trên cao nhất, đảng CSTQ đã bị suy yếu cùng cực, mất hết uy tín trong xã hội, cần có một sự cải tổ tận gốc. Trong đảng CSTQ đã có đòi hỏi ‘’xóa bài, làm lại từ đầu‘’, giải thể đảng CS, lập nên một đảng mới . Cũng có ý kiến nên trở về với nền dân chủ, theo chủ nghĩa Tam Dân của Tôn Trung Sơn – Dân chủ, Dân quyền, Dân sinh.
Theo Đại Kỷ Nguyên, trong 15 năm qua trong phong trào ‘’Thoát đảng CS‘’ đã có hơn 200 triệu người từ bỏ đảng CS và các tổ chức ngoại vi của đảng, như Đoàn Thanh Niên, Đoàn Phụ nữ, Tổng công đoàn, Hội Nông dân, Đoàn Thiếu nhi, Hội trí thức, Hội Nhà báo, Hội Luật gia, Hội nhà kinh doanh …
Có hai sự kiện gây nên sự sa sút nghiêm trọng uy tín vốn đã nghèo nàn của đảng CSTQ. Một là cuộc tàn sát mấy nghìn thanh niên sinh viên ở Thiên An Môn tháng sáu 1989, và cuộc đàn áp đầy ải hàng chục triệu thành viên Pháp Luân Công trong cả nước từ năm 1999 đến nay, trong đó nổi lên tội ác diệt chủng là cướp phủ tạng của tù nhân còn sống như tim, gan, mật, thận, mắt để bán với giá rất cao cho kẻ giàu sang và quan chức lâm bệnh.
Trong khi dư luận TQ và quốc tế bàn tán đến tương lai, số phận của đảng CSTQ thì một cuốn sách được phát hành ở Hồng Kông, Đài Loan và lan tràn cực nhanh vào lục địa. Đó là cuốn sách Từ biệt Bộ Tổng Tham Mưu Quân Giải phóng Trung Quốc’’ (tên tiếng Anh là Farewell to the Chinese Liberation Army General Staff – The Memoirs of Luo Yu). Cuốn sách ra đầu năm nay, đã tái bản 3 lần, bán chạy như tôm tươi.
Luo Yu (La Vũ) con trai duy nhất của Đại tướng La Thụy Khanh Tổng Tham mưu trưởng QGP Trung quốc, từng tham gia Vạn lý Trường Chinh, Chiến tranh Triều Tiên, từng sang VN nghiên cứu tình hình năm 1962 cùng Nguyên soái Diệp Kiếm Anh. La Thụy Khanh cùng Đặng Tiểu Bình bị Mao và Lâm Bưu trừng trị trong cuộc Cách mạng Văn hóa Vô sản. La khốn quẫn nhảy lầu từ lầu ba không chết nhưng gãy chân vào năm 1968, được phục hồi danh dự năm 1975. La Vũ sinh năm 1944, gia nhập quân đội sớm, cùng bố bị tù khi 24 tuổi, năm 1977 được trở lại quân đội, năm 1987 là Trưởng phòng thiết bị hàng không của Bộ Tổng Tham mưu, với cấp đại tá khi 43 tuổi. Nếu cứ theo đảng CS, La Vũ có thể sớm lên cấp tướng và không kém gì tướng Lưu Á Châu,con rể Lý Tiên Niệm, và tướng Lưu Nguyên, con Lưu Thiếu Kỳ.
Tháng 6/1989 khi cuộc thảm sát Thiên An Môn xảy ra, La Vũ cực kỳ bất mãn, xin từ chức . Năm 1990 La Vũ lấy vợ , cô Leung Kwok Hing (Lương Quốc Hưng), một doanh nhân và cũng là một ca sỹ nổi tiếng. Ngay sau đó anh bị khai trừ vì bỏ sinh hoạt đảng.
La Vũ có tư duy độc lập, cho rằng con đường của Đặng Tiểu Bình là sai, phản dân chủ và là ‘’xây dựng chủ nghĩa tư bản quan liêu thối nát rất nguy hiểm’’. Năm 1992 La Vũ cùng vợ lặng lẽ sang Hoa Kỳ, sống tại Harrisburg, Pennsylvania, tập trung viết sách báo và viết hồi Ký. Một nét rất đặc biệt là La Vũ và Tập Cận Bình vốn là hai bạn chí thiết vì hai ông bố La Thụy Khanh và Tập Trọng Huân là hai đồng chí công thần lập quốc đều bị Mao và Lâm Bưu trừng phạt. La Vũ cùng Tập Cận Bình mới lớn lên đều qua cuộc sống bi đát về nông thôn sinh sống tự lập, rất thông cảm với nhau.
La Vũ thường gửi thư cho Tập Cận Bình để góp ý và khuyên răn. Một số lá thư được đưa ra công khai.Gần đây nhất La khuyên Tập nên giả từ quá khứ một cách kiên quyết, quả đoán, giải thể đảng CS lập nên thể chế Dân chủ đa đảng, từ đó có thể hòa bình thống nhất Trung Quốc với Đài Loan, hòa nhập với cộng đồng quốc tế.
Trong thư ngỏ cuối cùng nhà Dân chủ La Vũ khẩn thiết khuyên Tập Cận Bình nên nghiên cứu chuyện Tưởng Kinh Quốc con Tưởng Giới Thạch khi lên làm Thủ tướng Đài Loan đã chấm dứt chế độ độc đảng của Quốc Dân đảng, dựng nên chế độ dân chủ đa đảng, mở ra thời kỳ phát triển kinh tế thần kỳ, làm gương cho lục địa.
Trung Quốc đang ở ngã ba đường. Tập Cận Bình có đủ sáng suốt và nghị lực để khi cờ đã đến tay dám làm nên chuyện lớn, vì dân vì nước, chuyển hẳn mô hình cai trị và thể chế chính trị vì tương lai hạnh phúc của hơn một tỷ nhân dân Trung Quốc hay không? Chọn con đường nào sẽ còn có ảnh hưởng cực lớn đến đất nước ta, đến toàn khu vực và toàn thế giới.
Bùi Tín
26-6-2016
Mấy ngày nay có hai sự kiện gây tiếng vang lớn từ Trung Quốc. Một là tin từ Hồng Kông và từ báo mạng Đại Kỷ Nguyên báo tin, đêm 10/6 ông Giang Trạch Dân, nguyên Tổng bí thư đảng CSTQ đã bị bắt tại nhà riêng, hiện bị giam giữ tại một nhà giam đặc biệt ở Thượng Hải. Trước đó, hai con trai của ông Giang là Giang Miên Hằng và Giang Miên Khang, lãnh đạo các ngành thông tin, giao thông ở Thượng Hải, cũng đã bị giam. Thượng Hải vốn là địa bàn ảnh hưởng lớn nhất của phe phái Giang trong mấy chục năm nay.
Giang Trạch Dân là con hổ lớn nhất – Vương Hổ – bị sa lưới trong chiến dịch ‘’Đả hổ diệt ruồi’’ do Tập Cận Bình chủ trương từ hai năm nay. Hơn 60 vạn cán bộ, trong đó có hơn 20 vạn cán bộ cao cấp trong đảng CS và bộ máy Nhà nước Trung Cộng đã bị truy tố và xét xử.
Lần đầu tiên một số Ủy viên Thường vụ Bộ chính trị xưa nay được coi là bất khả xâm phạm bị truy tố và vào tù. Chu Vĩnh Khang, trùm dầu mỏ và trùm an ninh đã bị vào tù. Bạc Hy Lai bị tù chung thân. Tướng Từ Tài Hậu bị chết trong tù. Tướng Quách Bá Hùng từng là phó bí thư Quân ủy TƯ bị tống giam.
Giang Trạch Dân là nhân vật cao cấp nhất cùng cả phe nhóm Thượng Hải với hệ thống gia đình trị của ông ta sa lưới là đòn quyết định của Tập Cận Bình theo phương châm nhổ cỏ tận gốc, giữa lúc có tin Giang đang chuẩn bị một cú ‘đảo chính cung đình’’. Có hai nhân vật quan trọng đang có nguy cơ bị quét tiếp là nguyên Chủ tịch nước Tăng Khánh Hồng và Ủy viên thường vụ Bộ chính trị hiện tại chức Lưu Vân Sơn phụ trách ngành Tuyên huấn và được coi là người của Giang.
Hiện nay dư luận TQ tập trung chờ đợi việc gì sẽ xảy ra sau khi nhóm Giang bị sa lưới toàn bộ? Sẽ có phiên tòa tối cao xét xử công khai vụ án cực lớn ‘’Âm mưu đảo chính trước Đại hội 18, nhằm ngăn chặn Tập Cận Bình lên thay Hồ Cẩm Đào để đưa Bạc Hy Lai lên ‘’, trong đó Giang là kẻ chủ mưu, cùng Chu Vĩnh Khang, Bạc Hy Lai, Tăng Khánh Hồng, Từ Tài Hậu , Quách Bá Hùng … là tòng phạm chính.
Vấn đề quan trọng nhất là từ vụ án này, số phận của đảng CSTQ sẽ ra sao? Chính Tập Cận Bình đã than vãn là Quân Giải phóng TQ đã bị hư hỏng từ trên cao nhất, đảng CSTQ đã bị suy yếu cùng cực, mất hết uy tín trong xã hội, cần có một sự cải tổ tận gốc. Trong đảng CSTQ đã có đòi hỏi ‘’xóa bài, làm lại từ đầu‘’, giải thể đảng CS, lập nên một đảng mới . Cũng có ý kiến nên trở về với nền dân chủ, theo chủ nghĩa Tam Dân của Tôn Trung Sơn – Dân chủ, Dân quyền, Dân sinh.
Theo Đại Kỷ Nguyên, trong 15 năm qua trong phong trào ‘’Thoát đảng CS‘’ đã có hơn 200 triệu người từ bỏ đảng CS và các tổ chức ngoại vi của đảng, như Đoàn Thanh Niên, Đoàn Phụ nữ, Tổng công đoàn, Hội Nông dân, Đoàn Thiếu nhi, Hội trí thức, Hội Nhà báo, Hội Luật gia, Hội nhà kinh doanh …
Có hai sự kiện gây nên sự sa sút nghiêm trọng uy tín vốn đã nghèo nàn của đảng CSTQ. Một là cuộc tàn sát mấy nghìn thanh niên sinh viên ở Thiên An Môn tháng sáu 1989, và cuộc đàn áp đầy ải hàng chục triệu thành viên Pháp Luân Công trong cả nước từ năm 1999 đến nay, trong đó nổi lên tội ác diệt chủng là cướp phủ tạng của tù nhân còn sống như tim, gan, mật, thận, mắt để bán với giá rất cao cho kẻ giàu sang và quan chức lâm bệnh.
Trong khi dư luận TQ và quốc tế bàn tán đến tương lai, số phận của đảng CSTQ thì một cuốn sách được phát hành ở Hồng Kông, Đài Loan và lan tràn cực nhanh vào lục địa. Đó là cuốn sách Từ biệt Bộ Tổng Tham Mưu Quân Giải phóng Trung Quốc’’ (tên tiếng Anh là Farewell to the Chinese Liberation Army General Staff – The Memoirs of Luo Yu). Cuốn sách ra đầu năm nay, đã tái bản 3 lần, bán chạy như tôm tươi.
Luo Yu (La Vũ) con trai duy nhất của Đại tướng La Thụy Khanh Tổng Tham mưu trưởng QGP Trung quốc, từng tham gia Vạn lý Trường Chinh, Chiến tranh Triều Tiên, từng sang VN nghiên cứu tình hình năm 1962 cùng Nguyên soái Diệp Kiếm Anh. La Thụy Khanh cùng Đặng Tiểu Bình bị Mao và Lâm Bưu trừng trị trong cuộc Cách mạng Văn hóa Vô sản. La khốn quẫn nhảy lầu từ lầu ba không chết nhưng gãy chân vào năm 1968, được phục hồi danh dự năm 1975. La Vũ sinh năm 1944, gia nhập quân đội sớm, cùng bố bị tù khi 24 tuổi, năm 1977 được trở lại quân đội, năm 1987 là Trưởng phòng thiết bị hàng không của Bộ Tổng Tham mưu, với cấp đại tá khi 43 tuổi. Nếu cứ theo đảng CS, La Vũ có thể sớm lên cấp tướng và không kém gì tướng Lưu Á Châu,con rể Lý Tiên Niệm, và tướng Lưu Nguyên, con Lưu Thiếu Kỳ.
Tháng 6/1989 khi cuộc thảm sát Thiên An Môn xảy ra, La Vũ cực kỳ bất mãn, xin từ chức . Năm 1990 La Vũ lấy vợ , cô Leung Kwok Hing (Lương Quốc Hưng), một doanh nhân và cũng là một ca sỹ nổi tiếng. Ngay sau đó anh bị khai trừ vì bỏ sinh hoạt đảng.
La Vũ có tư duy độc lập, cho rằng con đường của Đặng Tiểu Bình là sai, phản dân chủ và là ‘’xây dựng chủ nghĩa tư bản quan liêu thối nát rất nguy hiểm’’. Năm 1992 La Vũ cùng vợ lặng lẽ sang Hoa Kỳ, sống tại Harrisburg, Pennsylvania, tập trung viết sách báo và viết hồi Ký. Một nét rất đặc biệt là La Vũ và Tập Cận Bình vốn là hai bạn chí thiết vì hai ông bố La Thụy Khanh và Tập Trọng Huân là hai đồng chí công thần lập quốc đều bị Mao và Lâm Bưu trừng phạt. La Vũ cùng Tập Cận Bình mới lớn lên đều qua cuộc sống bi đát về nông thôn sinh sống tự lập, rất thông cảm với nhau.
La Vũ thường gửi thư cho Tập Cận Bình để góp ý và khuyên răn. Một số lá thư được đưa ra công khai.Gần đây nhất La khuyên Tập nên giả từ quá khứ một cách kiên quyết, quả đoán, giải thể đảng CS lập nên thể chế Dân chủ đa đảng, từ đó có thể hòa bình thống nhất Trung Quốc với Đài Loan, hòa nhập với cộng đồng quốc tế.
Trong thư ngỏ cuối cùng nhà Dân chủ La Vũ khẩn thiết khuyên Tập Cận Bình nên nghiên cứu chuyện Tưởng Kinh Quốc con Tưởng Giới Thạch khi lên làm Thủ tướng Đài Loan đã chấm dứt chế độ độc đảng của Quốc Dân đảng, dựng nên chế độ dân chủ đa đảng, mở ra thời kỳ phát triển kinh tế thần kỳ, làm gương cho lục địa.
Trung Quốc đang ở ngã ba đường. Tập Cận Bình có đủ sáng suốt và nghị lực để khi cờ đã đến tay dám làm nên chuyện lớn, vì dân vì nước, chuyển hẳn mô hình cai trị và thể chế chính trị vì tương lai hạnh phúc của hơn một tỷ nhân dân Trung Quốc hay không? Chọn con đường nào sẽ còn có ảnh hưởng cực lớn đến đất nước ta, đến toàn khu vực và toàn thế giới.
Tân Cương
Bách khoa toàn thư mở Wikipedia
| Bài hay đoạn này cần người am hiểu về chủ đề của nó để trợ giúp biên tập và mở rộng bài viết. Bạn có thể giúp chỉnh sửa bài hoặc nhờ một ai đó. Xem trang thảo luận để biết thêm chi tiết. |
Bài này viết về Khu tự trị Tân Cương (Trung Quốc). Đối với bài về địa danh hành chính cấp xã tại Việt Nam, xem Tân Cương, Thái Nguyên.
Tân Cương (Uyghur: شىنجاڭ, Shinjang; tiếng Trung: 新疆; bính âm: Xīnjiāng; Wade–Giles: Hsin1-chiang1; bính âm bưu chính: Sinkiang) tên chính thức là Khu tự trị Duy Ngô Nhĩ Tân Cương hay Khu tự trị Uyghur Tân Cương là một khu vực tự trị
tại Cộng hòa Nhân dân Trung Hoa. Đây là đơn vị hành chính cấp tỉnh lớn
nhất của Trung Quốc với diện tích lên tới 1,6 triệu km². Tân Cương có
biên giới với Nga, Mông Cổ, Kazakhstan, Kyrgyzstan, Tajikistan, Afghanistan, Pakistan và Ấn Độ.
Tân Cương có trữ lượng dầu mỏ và là khu vực sản xuất khí thiên nhiên
lớn nhất Trung Quốc. Tân Cương cũng quản lý về hành chính đối với khu
vực Aksai Chin, là nơi Ấn Độ cũng tuyên bố chủ quyền.Tân Cương nghĩa là ‘biên cương mới’, tên gọi này được đặt từ thời nhà Thanh Khu tự trị là nơi sinh sống của nhiều dân tộc khác nhau, các dân tộc chính có thể kể tới là Uyghur (Duy Ngô Nhĩ), Hán, Kazakh, Hồi, Kyrgyz và Mông Cổ. Tân Cương cũng là nơi diễn ra nhiều vụ bạo lực sắc tộc đổ máu, như Bạo động tại Ürümqi, tháng 7 năm 2009. Tân Cương được chia thành Bồn địa Dzungarian ở phía bắc và Bồn địa Tarim ở phía nam. Chỉ có khoảng 4,3% diện tích đất đai của Tân Cương thích hợp cho con người cư trú.
Tên gọi
Khu vực Tân Cương ngày nay từng được gọi với nhiều tên khác nhau trong thời kỳ đầu, bao gồm: 西域 (Xiyu, Tây Vực), Tartary thuộc Trung Hoa, Thượng Tartary, Đông Chagatay, Mugholistan, Kashgaria, Altishahr ('sáu thành phố' của Tarim), Tiểu Bokhara và Serindia.Tên gọi Tân Cương xuất hiện trong thời Nhà Thanh. Trong giai đoạn đầu, triều đình nhà Thanh coi Tân Cương bao gồm tất cả các khu vực từng thuộc đế quốc Trung Hoa từng bị mất nhưng nay được nhà Thanh thu hồi lại. Sau năm 1821, nhà Thanh đặt lại tên cho các khu vực thu hồi và Tân Cương trở thành tên của khu tự trị cho đến nay.
Địa lý
Hồ Thiên Trì
Hầu hết Tân Cương có kiến tạo địa chất trẻ, được tạo thành từ sự va đập của mảng Ấn Độ vào mảng Âu Á, định hình Thiên Sơn, Côn Lôn Sơn và dãy núi Pamir. Do vậy, Tân Cương là một khu vực động đất chính. Các hình thành địa chất cũ hơn xuất hiện chủ yếu ở khu vực cực bắc nơi Khối Junggar là một phần về mặt địa chất của Kazakhstan, và ở phía đông là một phần của Bình nguyên Hoa Bắc.
Tân Cương với vị trí biệt lập và rất xa biển. Điểm khó tiếp cận nhất trên đại lục Âu Á có tọa độ (46°16.8′B 86°40.2′Đ) nằm ở Sa mạc Dzoosotoyn Elisen, cách vùng biển gần nhất là 2648 km (1.645 mi) theo đường thẳng.
Dãy núi Thiên Sơn nằm trên biên giới Tân Cương-Kyrgyzstan có đèo Torugrat cao 3752 mét. Quốc lộ Karakorum (KKH) kết nối Islamabad, Pakistan với Kashgar trên Hành lang Khunjerab.
Vì là điểm cực tây của Trung Quốc, người dân địa phương sử dụng thời gian không chính thức là UTC+6, mặc dù múi giờ chính thức là UTC+8.
Kinh tế
Ürümqi
Nhân khẩu
Phân bổ sắc tộc tại Tân Cương năm 2000
Tân Cương là nơi cư trú của nhiều nhóm dân tộc và tôn giáo khác nhau, tuy nhiên phần lớn cư dân tại đây theo Hồi giáo. Trong số các dân tộc có đức tin Hồi giáo, đáng chú ý nhất là các dân tộc Turk như Uyghur, Uzbek, Kyrgyz, Tatar và Kazakh, cũng có một số người Hồi giáo thuộc nhóm dân tộc Iran và người Hồi. Các dân tộc khác là Hán, Mông Cổ, Nga, Tích Bá và Mãn. Năm 1945, có khoảng 70.000 người gốc Nga sinh sống tại Tân Cương.
Dân số Tân Cương ước tính vào khoảng 1.180.000 người năm 1880 và tăng lên rõ rệt sau đó do những người di cư và bị lưu đày từ Trung Nguyên.
Tỷ lệ người Hán tại Tân Cương đã tăng từ dưới 7% vào năm 1949 lên tới 40% theo con số chính thức hiện nay. Số liệu này không bao gồm các quân nhân hay gia đình của họ và những người lao động di cư không đăng ký. Những biến đổi này được cho là do Binh đoàn sản xuất và xây dựng Tân Cương, một tổ chức bán quân sự của những người khai hoang đã xây dựng các nông trường, thị trấn và thành phố rải rác khắp Tân Cương. Sự biến đổi về mặt dân tộc được những người Uyghur ly khai coi là mối đe dọa đối với văn hóa bản địa của các dân tộc tại Tân Cương. Năm 1953, khoảng ba phần tư dân cư sinh sống ở phía nam các dãy núi, thuộc bồn địa Tarim và dòng người Hán di cư thẳng tới Dzungaria (phía bắc các dãy núi của bồn địa Tarim) bởi nơi này có các tài nguyên thiên nhiên. Các dân tộc thiểu số tại Tân Cương không phải thi hành chính sách một con.
| Các dân tộc Tân Cương, thống kê năm 2000 | ||
|---|---|---|
| Dân tộc | Dân số | Tỷ lệ phần trăm |
| Uyghur (Duy Ngô Nhĩ) | 8.345.622 | 45.21 |
| Hán | 7.489.919 | 40.58 |
| Kazakh (Cáp Tát Khắc) | 1.245.023 | 6.74 |
| Hồi | 839.837 | 4.55 |
| Kyrgyz (Kha Nhĩ Khắc Tư) | 158.775 | 0.86 |
| Mông Cổ | 149.857 | 0.81 |
| Đông Hương | 55.841 | 0.30 |
| Tajik (Tháp Cát Khắc) | 39.493 | 0.21 |
| Xibe (Tích Bá) | 34.566 | 0.19 |
| Mãn | 19.493 | 0.11 |
| Thổ Gia | 15.787 | 0.086 |
| Uzbek (Ô Tư Biệt Khắc) | 12.096 | 0.066 |
| Nga | 8935 | 0.048 |
| Miêu | 7006 | 0.038 |
| Tạng | 6153 | 0.033 |
| Tráng | 5642 | 0.031 |
| Daur (Đạt Oát Nhĩ) | 5541 | 0.030 |
| Tatar (Tháp-tháp-nhĩ) | 4501 | 0.024 |
| Salar (Tát Lạp) | 3762 | 0.020 |
Lịch sử
Thời sơ khai
Các cư dân đầu tiên tại Tân Cương là những người Mongoloid Trung Á, người Europoid đã nhập cư đến Tân Cương trong vài nghìn năm trước. Theo J.P. Mallory và Victor H. Mair, các nguồn Trung Hoa mô tả sự hiện diện của những "người da trắng với tóc màu phớt" hoặc người Bạch trong Sơn Hải Kinh, họ sinh sống bên ngoài biên giới tây bắc của Trung Hoa.
trái: người tóc nâu và mắt xanh; phải: hòa thượng người Mongoloid, phía đông lòng chảo Tarim, thế kỷ 9–10.
Các nền văn hóa du mục như Nguyệt Chi được ghi chép tại khu vực Tân Cương sớm nhất là vào năm 645 TCN, đó là trong các quyển 73: 78: 80: 81 của Quản Tử do Quản Trọng viết. Ông mô tả Ngu Thị 禺氏, hay Ngưu Thị 牛氏 là một dân tộc đến từ tây-bắc, họ cung cấp ngọc thạch đến Trung Hoa từ dãy núi Ngu Thị ở không xa thuộc Cam Túc. Việc cung cấp ngọc thạch từ lòng chảo Tarim từ thời cổ cũng được chứng minh thông qua khảo cổ học: "Người ta biết rằng các quân chủ Trung Hoa cổ đại gắn bó mật thiết với ngọc thạch. Toàn bộ các đồ ngọc thạch được khai quật từ Phụ Hảo mộ từ thời nhà Thương, bao gồm trên 750 miếng, đến từ Hòa Điền thuộc Tân Cương ngày nay. Ngay từ giữa thiên niên kỷ thứ nhất TCN, người Nguyệt Chi đã tham gia vào việc giao thương ngọc thạch, trong đó những người tiêu thụ chính là các vị quân chủ tại Trung Hoa nông nghiệp."
Các bộ lạc du mục Nguyệt Chi được ghi chép chi tiết trong thư tịch lịch sử Trung Hoa, đặc biệt là trong "Sử ký" của Tư Mã Thiên, trong đó nói rằng họ "thịnh vượng" song thường xuyên có xung đột với bộ lạc Hung Nô láng giềng ở phía đông bắc. Theo các ghi chép này:
Người Nguyệt Chi ban đầu sống tại khu vực giữa Kỳ Liên và Đôn Hoàng, sau khi bị Hung Nô đánh bại thì họ di chuyển ra xa [về phía tây], đi qua Uyên, tây kích người Đại Hạ, toại đô ở phía bắc Quy Thủy (媯水, tức Amu Darya). Lập vương đình. Một bộ phận nhỏ người dân không thể tiến hành cuộc hành trình về phía tây đã tìm cách tị nạn ở chỗ người Khương tại Nam Sơn, hiệu "Tiểu Nguyệt Chi".
Thời kỳ tranh chấp Hung Nô và nhà Hán
Từ thế kỷ thứ 2 TCN, sau khi Hán Vũ Đế phái Trương Khiên đi sứ Tây Vực, nhà Hán và Hung Nô đã tiến hành nhiều cuộc chiến tranh kéo dài hơn bảy mươi năm tại Tây Vực.Theo Hán thư ghi chép thì đồn điền bắt đầu vào năm 101 TCN, năm đó Nhị Sư tướng quân Lý Quảng Lợi lần thứ hai viễn chinh nước Đại Uyển thắng lợi. Tiếp thu lời răn dạy về sự khó khăn trong việc cấp dưỡng lương thực trong các cuộc viễn chinh, nhà Hán bắt đầu lập đồn điền ở Tây Vực, đặt quan chuyên môn quản lý công việc đồn điền.
Đánh chiếm nước Đại Uyển xa xôi là một cuộc chiến có ý nghĩa quyết định nhằm củng cố địa vị của nhà Hán tại Tây Vực. Nước Đại Uyển nằm ngoài Cao nguyên Pamir, trường kỳ bị người Hung Nô khống chế, đối với việc ngoại giao thời nhà Hán như vậy là mạo phạm. Năm 104 TCN, Hán Vũ Đế phái đặc sứ đi Đại Uyển để mua đổi ngựa quý, nhưng bị cự tuyệt và sứ giả bị làm nhục. Tin tức truyền đến Trường An, Hán Vũ Đế giận dữ bèn lệnh cho Đại tướng Lý Quảng Lợi xuất chinh. Nước Đại Uyển có thành tên là Nhị Sư, sản sinh ngựa quý. Hán Vũ Đế lấy tên là Nhị Sư tướng quân ban cho Lý Quảng Lợi biểu thị quyết tâm chinh phục Đại Uyển.
Nhị Sư tướng quân suất lĩnh 6 ngàn kỵ binh và hàng vạn quân sĩ ra Ngọc Môn quan hướng tây chinh phạt. Khi đến vùng đất phèn ở La Bố thì mọi người đều mệt mỏi, yếu sức. Sau đó trên đường tiến về cao nguyên Pamir lại gặp quân Hung Nô sách động các nước nhỏ đánh lén, cắt đứt xe lương, đại quân trên đường tiến đến Đại Oản đã mất hết lợi thế. Năm 102 TCN, Nhị Sư tướng quân bị thất bại phải rút lui về Đôn Hoàng, đám tàn quân chỉ còn lại một, hai phần mười.
Ông sai sứ trình thư về triều đình yêu cầu bãi binh, trong thư viết: "Đường sá xa xôi, vận lương, khó khăn, binh lính không sợ chiến đấu mà chỉ lo đói khát, người ít không đủ đánh thắng Đại Uyển". Hán Vũ Đế nghe Lý Quảng Lợi thua trận rút lui rất lấy làm giận dữ, hạ lệnh: "Kẻ bại trận bước vào Ngọc Môn quan, chém". Đồng thời tại triều, quan văn nào chủ trương đinh chiến, hòa hoãn cũng bị trị tội. Nhà vua hạ quyết tâm dốc toàn lực tăng cường tinh binh viễn chinh một lần nữa.
Năm 101 TCN, Nhị Sư tướng quân chinh phạt miền tây lần thứ hai. Ông suất lĩnh 6 vạn binh sĩ, ba ngàn chiến mã và hơn một vạn trâu/bò, lừa, ngựa, lạc đà chuyển vận lương thảo và khí giới. Một đội quân hùng mạnh hơn bao giờ hết ào ào tiến về phía tây, các tiểu quốc dọc đường đều chấn kinh, tranh nhau dâng cấp rượu thịt. Đại quân thủ thắng sau hơn 40 ngày vây chặt thành Đại Uyển. Nước Đại Uyển bại trận phải dâng tặng ngựa quý hàng chục con, ngựa tốt hàng ngàn con. Hán Vũ Đế không tiếc sức người, sức của cả nước đi viễn chinh Đại Uyển, nếu nói là để lấy về ngựa quý thì tại sao không nói là để đẩy lùi thế lực của người Hung Nô ở Tây Vực, tăng cường uy thế của nhà Hán tại đây. Từ trước đến nay, ở Tây Vực bất kể là Đại Uyển hoặc các tiểu quốc khác đều bị sự khống chế và ảnh hưởng của Hung Nô dưới nhiều mức độ khác nhau.
Sau lần viễn chinh này, vị trí của nhà Hán ở Tây Vực được củng cố hơn lên, quan viên quân sự, hành chính bắt đầu đặt trụ sở lâu dài ở Tây Vực, đồng thời cũng cho lập đồn điền bảo đảm việc cấp dưỡng lương thực cho quan viên, quân sĩ tại đây. Hán thư có ghi: "Từ sau khi Nhị Sư tướng quân chinh phạt Đại Uyển thành công, toàn xứ Tây Vực khiếp sợ, nhiều nước sai sứ triều cống, người Tây Vực nào có công sẽ được ban chức... Luân Đài, Cừ Lê đều có hàng trăm lính canh điền, đặt hiệu úy trông coi..."
Luân Đài và Cừ Lê đời Hán nay là vùng trung được lưu vực sông Tarim thuộc Nam Tân Cương, nằm trên tuyến giữa của Con đường tơ lụa, đất cát phì nhiêu, nước nôi sung túc, khí hậu ôn hòa, theo báo cáo của các quan đại thần nhà Hán và Tang Hoằng Dương thì các đồn điền Luân Đài và Cừ Lê sau 10 năm khai khẩn, đất canh tác có đến năm ngàn khoánh, trồng ngũ cốc bội thu và chín cùng với lúa ở Trung Nguyên.
Vói tầm nhìn rộng lớn của Tang Hoằng Dương, ông đưa ra kế hoạch từng bước mở rộng đồn điền tại Tây Vực lên vua Hán Vũ Đế. Ông đề nghị khảo sát, xem xét địa hình, khai thác nguồn thủy lợi, sửa mương đào rãnh, phổ biến kinh nghiệm canh tác ở nội địa. Ông còn đề xuất binh sĩ sau khi khai khẩn tạo được thành tích có thể cho di dân từ nội địa đến để thay thế và làm tiếp.
Các đề nghị của Tang Hoằng Dương không được triều đình bấy giờ chấp nhận, phải đợi đến 10 năm sau mới được Hán Chiêu Đế tiếp thụ. Hán Chiêu Đế bổ nhiệm Thái tử nước Vu Di làm Hiệu úy tướng quân chủ quản công việc đồn điền ở khu vực Luân Đài. Về sau, việc lập đồn điền mở ra khắp các nơi ở Tây Vực, nổi tiếng nhất là các đồn điền ở Thổ Lỗ Phồn, Cáp Mật, Cát Mộc Tát Nhĩ, Khố Nhĩ Lặc, A Khắc Tô... thậm chí còn lan qua vùng phụ cận hồ Issyk Kul thuộc địa phận Kyrgyzstan ngày nay.
Tùy vào sự phát triển đồn điền, các nông cụ bằng sắt và nghề rèn được truyền vào Tây Vực, ngoài ra, công tác thủy lợi tưới tiêu và kỹ thuật đào giếng cũng được phổ biến. Công cụ và kỹ thuật sản xuất tiên tiến ở nội địa lần lượt được du nhập vào Tây Vực, cuộc sống kinh tế của nhân dân ở đây và những ảnh hưởng canh tác nông nghiệp mang lại đã có những bước tiến rõ rệt và sâu sắc.
Đến đời Hán Tuyên Đế, vào năm Thần Tước năm thứ hai (năm 60 TCN), vua Hung Nô là Nhật Trục Vương dẫn đại binh đầu hàng nhà Hán, bấy giờ nhà Hán mới chính thức thiết đặt việc đô hộ Tây Vực, cử trưởng quan tối cao thống lĩnh địa hạt Tân Cương. Năm 60 TCN, triều đình phong kiến nhà Hán bắt đầu thay thế sự thống trị của chế độ chủ nô Hung Nô ở Tây Vực, chọn Ô Lũy (nay là huyện Luân Đài, Tân Cương) làm trung tâm thiết lập Tây Vực đô hộ phủ đại diện cho vương triều hành xử chủ quyền quốc gia từ hồ Balkash đến phía đông Cao nguyên Pamia. Từ đó, sự thông thương của Con đường tơ lụa được bảo đảm an toàn. Lúc đó Bắc lộ Thiên Sơn vẫn còn một phần đất thuộc Hung Nô. Đến năm 58 TCN, toàn bộ vùng đất này mới trực thuộc chính quyền trung ương nhà Hán. Những năm đầu đời Đông Hán, khu Tân Cương xảy ra tình hình cát cứ, bắc Tân Cương bị người Hung Nô chiếm lại. Chính quyền Đông Hán một lần nữa phải tiến đánh mới thu phục lại toàn bộ Tân Cương. Cảnh Cung là viên quan chấp chưởng quân sự của triều đình Đông Hán được phái đến đóng quân ở Bắc Thiên Sơn. Quân Hung Nô quấy nhiễu vùng Xa Sư Hậu quốc, ông cố thủ thành Kim Mãn (nay là Jimsar) và đẩy lui quân địch.
Sau thời Hán
Triều Tây Tấn bị các sắc dân du mục phương Bắc tiêu diệt vào đầu thế kỷ thứ 4. Một số vương quốc thời Ngũ Hồ thập lục quốc đã nối tiếp nhau cai trị phần Tây Bắc: Tiền Lương, Tiền Tần, Hậu Lương và Tây Lương. Sau khi nước Bắc Lương bị diệt, Thư Cừ Vô Húy và Thư Cừ An Chu đã tiến về phía tây để mong phục quốc, chiếm giữ một phần Tân Cương trong một thời gian ngắn. Các nước này đều cố gắng duy trì chế độ bảo hộ với khu vực Tân Cương với các mức độ thành công khác nhau. Sau khi Bắc Ngụy thống nhất miền Bắc Trung Hoa, triều đại này kiểm soát khu vực đông nam Tân Cương ngày nay. Các quốc gia bản địa có thể kể đến như Sơ Lặc, Vu Điền, Quỷ Tử, Thả Mạt, Cao Xương, Yên Kỳ, Quy Từ, Thiện Thiện.Đế chế Đột Quyết
Vào thế kỷ thứ 5, Thổ Dục Hồn và Nhu Nhiên bắt đầu mở rộng kiểm soát vào phía nam và bắc Tân Cương. Đến thế kỷ thứ 6 thì người Đột Quyết xâm chiếm vùng Altay, đánh bại người Nhu Nhiên và thành lập Đế chế Đột Quyết, kiểm soát hầu hết vùng Trung Á từ biển Aral phía Tây tới hồ Baikal phía đông. Với Tùy - Đường ở Trung Nguyên, Tây Đột Quyết thường hay uy hiếp Tây Vực giống như người Hung Nô đối với thời Lưỡng Hán.Đột Quyết là một dân tộc du mục cổ lão ở trên các sa mạc phía bắc Trung Quốc, từng liên minh Với bộ lạc Hung Nô, sau khi Hung Nô suy sụp thì bộ lạc này mới bắt đầu dùng tên gọi "Đột Quyết" và xuất hiện trên vũ đài lịch sử. Vào khoảng năm 552, nước Đột Quyết thành lập, nhưng không lâu sau đó lại bị phân liệt thành Đông Đột Quyết và Tây Đột Quyết.
Tây Đột Quyết khống chế một khu vực rộng lớn từ Bắc Thiên Sơn, Tây A Nhĩ Thái Sơn đến đông Hắc Hải. Vào thời cực thịnh của Tây Đột Quyết thì một số nước nhỏ ở Nam Thiên Sơn đều bị họ khống chế hoặc uy hiếp.
Tây Đột Quyết và chính quyền trung ương nhà Đường có mối quan hệ thân thuộc. Nhiều đời vua Tây Đột Quyết chịu nhận sắc phong của hoàng đế Đường và hàng năm về triều tiến cống. Sứ giả ngoại quốc gọi người Tây Đột Quyết là người Trung Quốc và cho rằng lãnh thổ phía tây của Tây Đột Quyết là cương vực Tây bộ của Trung Quốc. Thế nhưng Tây Đột Quyết lại dùng quân cát cứ, đôi khi chống lại, thậm chí còn đem quân đánh lại nhà Đường.
Là một bộ lạc du mục, nên sự thống trị của Tây Đột Quyết ở Tây Vực cực kỳ khắc nghiệt. Họ cướp bóc lương thực, súc vật của các nước nhỏ, đốt phá làng mạc, thành quách, bắt bớ tù binh, nô lệ. Thương khách lai vãng trên Con đường tơ lụa đôi khi cũng bị uy hiếp, cướp đoạt. Tây Đột Quyết còn mưu đồ lũng đoạn việc buôn bán tơ lụa của Trung Quốc với phương Tây đến nỗi phá vỡ mối quan hệ hòa mục của người Ba Tư. Hàng loạt những hành động bạo ngược của Tây Đột Quyết đã làm trở ngại sự tiến bộ của Tây Vực và sự phồn vinh của nền giao thương của phương Tây.
Thời nhà Đường
Sau khi nhà Đường thống nhất Trung Nguyên, các tiểu quốc ở Tây Vực và các quốc gia Tây Á tấp nập cử sứ thần về triều yêu cầu nghiêm trị bọn Tây Đột Quyết để khôi phục con đường tơ lụa. Thoạt đầu, nhà Đường đem quân tiễu trừ lực lượng tây Đột Quyết ở nam Thiên Sơn, vào năm 658, nhà Đường đặt An Tây Đô hộ phủ tại Quy Từ, xác lập vị trí vững chắc của chính quyền trung ương tại đây.Sự kiện này khiến Tây Đột Quyết cát cứ ở bắc Thiên Sơn phải chấn động. Sa Bát La khả hãn A Sử Na Hạ Lỗ không đánh mà hàng, đích thân đến Trường An triều kiến Đường Thái Tông và xin thần phục. Đường Thái Tông bèn lập Dao Trì Đô đốc phủ tại bắc lộ Thiên Sơn, giao A Sử Na Hạ Lỗ làm đô đóc, đóng trú sở tại Đình Châu (nay là Jimusar).
A Sử Na Hạ Lỗ là người đa mưu, ông sử dụng ngọn cờ của nhà Đường tự gây dựng thế lực, đến khi đủ hùng mạnh thì nổi dậy xưng vương, dời đô đến lưu vực sông Y Lê, đồng thời lần nữa đem binh tiến đánh nhà Đường.
Sau khi ảo tưởng về một nền hòa bình thống nhất Tây Vực của nhà Đường bị phá vỡ, bắt đầu từ năm 652, nhà Đường nhiều lần đem binh đánh giáp công A Sử Na Hạ Lỗ từ hai cánh nam bắc, rồi tổng công kích tại lưu vực sông Y Lê; A Sử Na Hạ Lỗ đại bại đào thoát về phía tây, chạy thẳng đến Thạch Quốc và bị người Thạch Quốc bắt đem giao cho quân đội nhà Đường. Từ đó, Tây Đột Quyết xưng hùng xưng bá ở Tây Vực bị diệt vong, nhà Đường hoàn thành công cuộc thống nhất Tây Vực vào năm 657.
Nhà Đường thiết lập hai Đô hộ phủ ở Côn Lăng và Mông Trì tại bắc lộ Thiên Sơn, phân chia việc cai trị lãnh thổ vùng tây sông Toái Diệp. Năm 702, để tăng cường sự thống trị tại Bắc Lộ Thiên Sơn, nữ hoàng đế Võ Tắc Thiên lập Bắc Đình đô hộ phủ ở Đình Châu, quản hạt luôn hai Đô hộ phủ Côn Lăng và Mông Trì với số binh sĩ hơn hai vạn.
Nhờ sự thiết lập Bắc Đình đô hộ phủ mà con đường thông vãng đông-tây ở bắc Thiên Sơn lại được khai thông. Sau khi thương khách trên con đường tơ lụa ra khỏi Đôn Hoàng, không những có thể theo tuyến nam và tuyết bắc từ sa mạc Taklamakan đi về phía tây mà còn có thể qua Ba Lý Khôn, Bắc Đình đi thẳng đến lưu vực sông Y Lê tiến lên phía tây để đến Ba Tư.
Thời Thịnh Đường, biên giới phía tây xa đến tận Hàm Hải. Để cai quản khu tây bắc rộng lớn ấy, triều đình nhà Đường đã thiết lập ở đây hai trung tâm chính trị quân sự: một là An Tây đô hộ phủ, đặt tại nước Quy Từ (nay là huyện Khố Xa, Tân Cương), cai quản từ vùng Thiên Sơn đến địa phận phía nam sông Toái Diệp; và một là Bắc Đình đô hộ phủ, đặt tại Đình Châu (nay là huyện Jimsar, Tân Cương), cai quản từ bắc Thiên Sơn đến khu đông bộ Hàm Hải. Năm Trường An thứ 2 (702 CN), nữ hoàng Võ Tắc Thiên mới thiết đặt Bắc Đình đô hộ phủ tại Đình Châu để cai quản vùng lãnh thổ bắc Thiên Sơn.
Việc thiết lập An Tây Đô hộ phủ và Bắc Đình Đô hộ phủ đánh dấu sự nghiệp to lớn của nhà Đường. đối với sự thống nhất Tây Vực. Có một thời việc giao thương đông - tây trên con đường tơ lụa bị gián đoạn nay mới được khôi phục và còn đạt đến trình độ phồn thịnh mà trước đó chưa từng có.
Đế chế Duy Ngô Nhĩ
Vào thế kỷ thứ III trước CN, tổ tiên người Duy Ngô Nhĩ gọi là bộ lạc Đinh Linh (hoặc người Thiết Lặc) sống bằng nghề du mục ở lưu vực sông Ngạc Nhĩ Hồn và sông Sắc Lăng Cách thuộc nội địa Mông Cổ. Hai sông này phát nguyên từ dãy núi Hàng Ái và chạy vào hồ Bối Gia Nhĩ (tức hồ Bunnur). Tùy thư và Đường thư đều nói người Hồi Hột "không có tù trưởng, ăn ở không ổn định, tùy thuộc vào nguồn nước và cỏ mà thiên di". Gọi là không có tù trưởng tức là không có chế độ thế tập (truyền nối) như các bộ lạc khác.Năm 647 CN, thủ lĩnh Hồi Hột Thổ Mật Độ tự xưng là Khả hãn và nhận sách phong của nhà Đường với danh hiệu: "Hoài Nhân Đại tướng quân kiêm Hãn Hải Đô đốc". Và trong lịch sử có lần một vương quốc Hồi Hột cường thịnh được hình thành. (Có thuyết cho rằng nước Hồi Hột được kiến lập vào năm 744 dựa trên sách phong thủ lĩnh Cốt Lực Bùi La nước Hồi Hột làm "Hoài Nhân khả hãn" trực tiếp thừa nhận ông ta là quốc vương chứ không phong tước hiệu nữa).
Người Hồi Hột vốn lấy du mục làm chính, nhưng với sự giúp đỡ của thợ thuyền người Hán, họ đã bắt chước người Hán xây dựng nhiều thành thị. Người Hồi Hột còn học chữ Hán. Năm 788, một thượng thư nhà Đường người Hồi Hột xin đổi danh xưng thành "Hồi Cốt" có ý nghĩa là người Hồi nhanh nhẹn như chim ưng, điều này cho thấy tầng lớp trí thức người thiểu số tinh thông Hán học.
Khi có loạn An Sử, nhà Đường đã từng yêu cầu nước Hồi Hột đem đội kỵ binh tiến vào Trung Nguyên giúp quân binh nhà Đường bình định bọn An Lộc Sơn và Sử Tư Minh. Để cảm tạ công lao trợ chiến ấy, hằng năm nhà Đường đem tặng cho Hồi Hột hai vạn tám lụa, đồng thời mua nhiều ngựa của người Hồi Hột với giá cao, mỗi con đổi được 40 tấm lụa. Do đó nền kinh tế Hồi Hột trở nên thuận lợi. Hồi Hột còn giúp nhà Đường duy trì bảo vệ đường giao thông giữa Trung Quốc và phương Tây.
Khi nước Thổ Phồn chiếm Hành lang Hà Tây và cắt đứt đường giao thông giữa nhà Đường và Tây Vực, viên chức nhà Đường và thương nhân đều phải mượn đường qua nước Hồi Hột để đi lại.
Với sự giúp đỡ của người Chiêu Vũ cửu tính, giỏi buôn bán kinh doanh, Hồi Hột đã từng là cầu nối mậu dịch quan trọng giữa Trung Quốc và Tây Vực.
Họ nhận những quà biếu từ nhà Đường đồng thời thông qua việc trao đổi lụa - ngựa họ cũng thu về nhiều tơ lụa, trừ chi phí ra, họ cũng có một số lợi tức tương đương với những khách thương buôn bán qua lại trên các thị trường vùng Tây Vực.
Đến cuối thế kỷ thứ 8, nước Hồi Hột bắt đầu suy thoái, thế kỷ thứ 9 xảy ra lục đục nội bộ, năm 840 thì bị người Điểm Giáp tiêu diệt.
Sau khi nước Hồi Hột bị diệt vong, người Hồi Hột bắt đầu một cuộc đại di tản về miền tây nổi tiếng trong lịch sử.
Một bộ phận định cư ở hành lang Hà Tây (Cam Túc), gọi là "Cam Châu Hồi Cốt", một bộ phận khác thì định cư ở Tân Cương, phần lớn tại khu vực Nam Thiên Sơn. Một chi khác lấy đất Thổ Lỗ Phồn làm trung tâm kiến lập ra nước Cao Xương của người Hồi Cốt, có cương vực đông giáp Tửu Tuyền, tây giáp Khố Xa, nam gặp đại sa mạc Taklamakan.
Còn một chi nữa thiên di về Dãy núi Pamir và lập ra nước Ca La, lãnh vực bao gồm phần lớn vùng Nam Cương và một phần đất thuộc Trung Á.
Người Hồi Cốt tại vùng lòng chảo Thổ Lỗ Phồn, lòng chảo Tarim và trên dãy Thông Lĩnh chung sống lâu dài với dân cư bản địa, kết hôn lẫn nhau, dần dần hình thành tộc người Duy Ngô Nhĩ hiện nay.
Vương triều Kalahan là chính quyền được thành lập bởi người Đột Quyết và người Hồi Hột vào khoảng thế kỷ 10, cương vực bao gồm vùng đông và nam hồ Balkhash và vùng tây bộ Tân Cương ngày nay.
Các thủ lĩnh của Vương triều Kalahan thường chứng tỏ mình là người Trung Quốc. Đầu họ đội mũ có dòng chữ đề: "Đào hoa Thạch Hãn" tức có nghĩa là "vua Trung Quốc". Vương triều này có hai trung tâm chính trị, một là Bát La Sa Cổn mà sử sách Trung Quốc gọi là Bùi La Tướng quân, và một là Ca Thập Hát Nhĩ.
Vương triều Kalahan là vương triều đầu tiên theo tín ngưỡng đạo Hồi. Bắt đầu từ thế kỷ 10, các thủ lĩnh của vương triều nhiều lần dùng bạo lực cưỡng ép truyền bá đạo
Hồi và đôi khi còn tiến hành những cuộc "thánh chiến". Ca Thập Hát Nhĩ vừa là trung tâm chính trị của Vương triều Kalahan, vừa là một trong những trung tâm Hồi giáo lớn nhất ở Tây Vực.
Thời kỳ Tây Liêu
Khi nhà Liêu của người Khiết Đan bị nhà Kim của người Nữ Chân tiêu diệt, một thành viên của hoàng tộc Liêu là Da Luật Đại Thạch đã dẫn một bộ phận người Khiết Đan tiến về phía tây, thủ lĩnh người Duy Ngô Nhĩ của Cao Xương Hồi Cốt cũng cam kết lòng trung thành của mình với ông. Da Luật Đại Thạch tăng cường lực lượng của mình, dần dần mở rộng quyền thế đến khu vực Qayaliq và Almaliq. Nỗ lực ban đầu nhằm chiếm Kashgar của lực lượng Da Luật Đại Thạch đã thất bại khi người cai trị của Khách Lạt hãn quốc (Kara-Khanid) tại đó đẩy lùi cuộc tấn công. Tuy nhiên, người cai trị tại Balasaghun, gặp khó khăn với các đội quân du mục của người Cát La Lộc (Karluk) và Khương Lý (Qanqli), đã nhờ Đại Thạch giúp đỡ và mời đội quân của ông đến. Đại Thạch thay vào đó đã chiếm thành phố, theo sử gia Ba Tư Ata-Malik Juvayni, "lên ngai vàng mà không mất gì.". Đại Thạch sau đó đã thiết lập quyền lực của mình tại Kashgar, Khotan, Kirghiz, và trung tâm của người Duy Ngô Nhĩ tại Beshbalik. Tuy nhiên, một nỗ lực nhằm tái lập triều Liêu tại Trung Quốc đã thất bại. Da Luật Đại Thạch mất năm 1143 khi đang là chủ nhân của phần lớn vùng Trung Á. Khi ông mất, đế quốc Tây Liêu bao trùm các khu vực Transoxiana, Ferghana, Semirechye, Lòng chảo Tarim và Dzungaria. Năm 1211, phò mã người Nãi Man Khuất Xuất Luật đã buộc Da Luật Trực Lỗ Cổ phải nhường ngôi. Khuất Xuất Luật lên nắm quyền, ông được ghi chép là đã thực hiện một chính sách chống Hồi giáo. Theo sử gia Ba Tư Ata-Malik Juvayni, ông yêu cầu dân cư theo Hồi giáo của một thị trấn lựa chọn cải sang Cảnh giáo hoặc Phật giáo, hoặc mặc trang phục Khiết Đan, dân cư đã lựa chọn mặc trang phục Khiết Đan. Khuất Xuất Luật đã tấn công thành Almaliq (A Lực Ma Lý), và người Cát La Lộc (Karluk) tại đây đã yêu cầu Thành Cát Tư Hãn giúp đỡ. Năm 1216, Thành Cát Tư Hãn cử tướng Triết Biệt (Jebe) đến truy kích Khuất Xuất Luật. Người Mông Cổ đầu tiên tới Almaliq, sau đó tiến vào kinh đô Balasaghun gần nơi họ đã đánh bại 30.000 quân Tây Liêu. Khuất Xuất Luật chạy về phía nam đến Kashgar, tuy nhiên hành vi cướp bóc và đốt phá trước đây khi ông chiếm được thành, chính sách chống Hồi giáo của ông, cũng như việc quân đội của ông trú chân tại các hộ dân bản địa, đã khiến người dân Kashgar trở nên đối kháng với ông Khi quân Mông Cổ tiếp cận Kashgar, Khuất Xuất Luật đã không thể tìm được sự trợ giúp tại đây và lại phải chạy trốn một lần nữa. Theo Ata-Malik Juvayni, người dân Kashgar sau đó đã giết chết binh sĩ của ông. Ông tiếp tục đi về phía nam để đến dãy núi Pamir, cuối cùng đến ranh giới giữa Badakhshan và Wakhan vào năm 1218Thời kỳ người Mông Cổ cai trị
Sau khi Thành Cát Tư Hãn thống nhất Mông Cổ và khuếch trương lãnh thổ, nhà nước Duy Ngô Nhĩ ở vùng Turfan-Urumqi đã quy phục Mông Cổ vào năm 1209, đóng góp thuế và quân lính cho quân Mông Cổ, đổi lại các vị quân chủ Duy Ngô Nhĩ duy trì quyền lực cai quản vương quốc của họ. Dưới thời Đế quốc Mông Cổ, Tân Cương bị phân chia giữa triều Nguyên và Sát Hợp Đài hãn quốc, sau đó Sát Hợp Đài hãn quốc kiểm soát hầu hết khu vực. Đến giữa thế kỷ 14, Sát Hợp Đài hãn quốc bị chia cắt thành các hãn quốc nhỏ hơn, Tân Cương do nhiều hãn Mông Cổ bị Ba Tư hóa đồng thời cai quản, bao gồm Mogholistan (với sự trợ giúp của các Emir Dughlat bản địa), Uigurstan (sau là Turpan), và Kashgaria. Các thủ lĩnh này giao chiến với nhau và với triều Timur tại Transoxania ở phía tây và người Ngõa Lạt (Mông Cổ Tây) ở phía đông. Mặc dù khu vực đã phát triển nền văn hóa Ba Tư ở mức độ cao trong giai đoạn này, song các cuộc tranh giành quyền kế vị và phân liệt nội bộ (Kashgaria bị tách làm hai trong hàng thế kỷ) đồng nghĩa với việc có ít tác phẩm viết về khu vực vào thế kỷ 16 và 17.Vào thế kỷ 17, một nhánh của người Mông Cổ là người Chuẩn Cát Nhĩ đã lập ra một đế quốc bao trùm phần lớn Tân Cương. Người Chuẩn Cát Nhĩ nguyên là một vài bộ lạc Ngõa Lạt, họ đã thành lập và duy trì một trong các đế quốc du mục cuối cùng trong lịch sử. Hãn quốc Chuẩn Cát Nhĩ chiếm cứ khu vực cùng tên và trải dài từ cực tây của Vạn Lý Trường Thành đến phía đông Kazakhstan ngày nay, và từ phía bắc Kyrgyzstan ngày nay đến phía nam Siberia. Hãn quốc Chuẩn Cát Nhĩ tồn tại từ giữa thế kỷ 17 đến giữa thế kỷ 18, khi nó bị triều Thanh chinh phục.
Thời Thanh
Nhà Thanh đã giành quyền kiểm soát đông bộ Tân Cương sau các cuộc chiến kéo dài với người Chuẩn Cát Nhĩ, bắt đầu thế từ thế kỷ 17. Năm 1755, với sự giúp đỡ của thai cát Ngõa Lạt A Mục Nhĩ Tát Nạp, quân Thanh đã tiến công Y Ninh, bắt được khả hãn của Chuẩn Cát Nhĩ. Sau khi thỉnh cầu được sách phong là khả hãn Chuẩn Cát Nhĩ song chưa được chuẩn thuận, A Mục Nhĩ Tát Nạp đã nổi dậy chống nhà Thanh. Hai năm sau đó, quân Thanh đã tiêu diệt dư bộ của Hãn quốc Chuẩn Cát Nhĩ và nhiều người Hồi đã chuyển đến khu vực.Người Chuẩn Cát Nhĩ chịu tổn hại nặng nề từ chiến tranh và dịch bệnh đậu mùa. Một nhà văn là Ngụy Nguyên đã mô tả cảnh tượng tan hoang tại khu vực nay là bắc bộ Tân Cương: "một vùng bằng phẳng trống không hàng nghìn lý, không có yurt của dân Ngõa Lạt ngoại trừ những nơi đã đầu hàng." Người ta ước tính rằng có đến 80% trong tổng số 600.000 (hoặc hơn) người Chuẩn Cát Nhĩ đã bị chết vì dịch bệnh và chiến tranh, và phải mất hàng thế hệ để phục hồi.
Sau khi đánh bại Chuẩn Cát Nhĩ, triều Thanh đã lập các thành viên của một gia tộc sufi shaykhs được gọi là các "hòa trác" (Khoja) làm những người cai trị ở phía tây lòng chảo Tarim, phía nam Thiên Sơn. Tuy nhiên, vào các năm 1758–59, các cuộc nổi loạn chống lại sự sắp đặt này đã nổ ra ở cả phía bắc và phía nam Thiên Sơn. Triều đình Thanh sau đó đã bắt buộc phải thiết lập một hình thức cai trị quân sự trực tiếp đối với cả Dzungaria (Bắc Cương) và lòng chảo Tarim (Nam Cương). Người Mãn đặt toàn bộ khu vực dưới quyền quản lý của Y Lê tướng quân, người này thiết lập trị sở tại Huệ Viễn, 30 km về phía tây của Y Ninh (Yining).
Sau năm 1759, khi hình thành nên các đồn điền, "đặc biệt là ở lân cận Urumqi, nơi đất đai màu mỡ và có nguồn nước tưới phong phú trong khi chỉ có ít cư dân." Từ năm 1760 đến 1830, ngày càng có nhiều đồn điền được mở ra và người Hán tại Tân Cương tăng nhanh chóng, lên đến khoảng 155.000 người
Quang cảnh chiến dịch của quân Thanh chống những người nổi dậy tại Đông Turkestan, 1828
Bành trướng Tân Cương
Trong khoảng thời gian 1850 trở đi, Đế quốc Nga không ngừng quan tâm đến Tân Cương. Vùng Turkestan và Đông Siberi thì bị nước Nga đe dọa xâm chiếm. Năm 1868, Tả Tông Đường được triều đình phái đến Cam Túc ổn định tình hình ở đây, đến năm 1873 Tả Tông Đường đã nhờ Ngân hàng Hối Phong Hồng Kông Thượng Hải (Anh Quốc) trợ giúp số tiền 5 triệu lạng bạc làm quân phí, dẫn quân băng qua sa mạc tiến vào vùng Tarim đàn áp cuộc khởi nghĩa do thủ lĩnh A Cổ Bách (Yaqub Beg, 1820 – 1877) lãnh đạo ở Tân Cương, và chiếm miền Y Lê từ tay người Nga.Trong thời gian này nhà Thanh chi tiêu quân phí rất tốn kém. Từ năm 1875 đến 1878, mặt trận phía Tây (Turkestan, thuộc Tân Cương) tốn mất 51 triệu lạng bạc trong đó 14 triệu lạng bạc được các ngân hàng của Anh cho vay, triều đình cung cấp 26,7 triệu lạng bạc trong vòng 3 năm.
Năm 1865 Hão Hãn Cổ quốc A Cổ Bá xâm nhập vùng Tân Cương chiếm giữ các vùng biên giới phía nam Tân Cương, thành lập nên Triết Đức Sa Nhi hãn quốc. Năm 1870, A Cổ Bá đem quân tiến lên phía bắc đánh chiếm Ô Lỗ Mộc Tề.
Tháng 5 năm 1872 A Cổ Bách ký kết với Đế quốc Nga điều ước cắt nhượng đất đai cho Nga. Hai nước Anh và Nga ganh đua trong việc ủng hộ A Cổ Bách, trong đó Anh đưa đến hàng vạn khẩu súng từ Ấn Độ đến. Chỉ trong một chuyến hàng đưa sang từ Ấn Độ, số lượng vũ khí đã lên tới 22.000 khẩu súng, 8 đại bác, 2.000 đạn pháo. Đế quốc Ottoman cũng công nhận A Cổ Bách là lãnh tụ chính trị Hồi giáo và gửi đến 12.000 súng trường, 8 khẩu đại bác. Quân số của A Cổ Bách lên tới 45.360 người được người Thổ Nhĩ Kỳ huấn luyện.
Năm 1875 Tả Tông Đường được thăng Khâm sai đại thần Đốc biện Tân Cương quân vụ, Văn Hoa điện Đại học sĩ, trước đó Tả Tôn Đường đã chủ động chuẩn bị binh lương.
Năm 1866, Tả Tông Đường bắt đầu thiết lập một hệ thống tiếp vận. Trước hết, ông xây 5 trung tâm hậu trạm tại Trung Hoa chia đều từ đông nam đến tây bắc (gồm ở Thượng Hải tại tỉnh Giang Tô, Thiên Tân thuộc tỉnh Hà Bắc, Phần Châu ở Sơn Tây, Bao Ninh và Thuận Tân ở Tứ Xuyên) và từ đó lương thực, vũ khí và các loại khí cụ khác được mua để chở tới mặt trận. Các trạm cung ứng dịch vụ quân đội ở gần hay tại mặt trận như ở Tây An vùng Thiểm Tây, Thiên Thủy vùng Cam Túc được thành lập để nhận vật liệu chở từ hậu trạm tới và cung cấp cho lực lượng ở trận tiền bằng cáng, xe hay lạc đà xuyên qua hàng ngàn cây số sa mạc. Giữa các trạm dịch vụ chính và hậu trạm có một hay nhiều trạm trung gian để nhận và giao vật dụng. Hán Khẩu chẳng hạn dùng làm hậu trạm phân phối thóc gạo cho mặt trận Thiểm Cam, từ đó tiếp liệu được chở tới Tây An theo nhiều đường khác nhau. Với hệ thống cung cấp như thế, Tả Tông Đường có thể giữ cho tiếp vận không bị gián đoạn. Ông cho người đến Lương Châu, Túc Châu, Ninh Hạ, Bao Đầu và cả nước Nga thu mua lương thực, chia đường chở đến Cáp Mật và nhiều vùng khác xa đến hàng ngàn dặm. Hàng đoàn người và xe vận chuyển lương thảo có quan binh bảo vệ vượt qua sa mạc tập trung về Cáp Mật. Sau 2 năm, số lương thực tại Cáp Mật đã lên tới hơn 1.000 tấn, các nơi khác cũng có đến hàng trăm tấn, tích trữ đủ quân lương.
Cho quân đồn trú khai phá đất hoang: Ngoài việc thiết lập đường tiếp liệu từ các khu vực duyên hải, Tả Tông Đường còn theo đuổi một chiến lược cổ điển để giải quyết các vấn đề lương thực. Ông ra lệnh cho quân sĩ khai phá các đất hoang trong khu vực doanh trại để sản xuất thóc gạo cho riêng họ. Chiến lược này vốn dĩ dùng từ thời nhà Hán trong thế kỷ thứ nhất và thứ hai cho đến cuối thế kỷ 18 khi nhà Thanh đóng quân ở Tân Cương.
Khai phá đất hoang tại các vùng biên giới chủ yếu là một chiến lược giải quyết các vấn đề tiếp liệu nhưng cũng có những ảnh hưởng xã hội - kinh tế đáng kể. Thay vì đóng quân để khai hoang, có khi triều đình cho hạt giống, nông cụ, gia súc và chia đất cho nông dân rồi để họ cày cấy. Sau mùa gặt, nhà nước mua hoa màu thặng dư để nuôi quân. Chính sách đó gọi là Dân Đồn nghĩa là để cho dân làm ruộng. Việc đó giúp cho chính quyền sở tại bình định được nông dân và tái lập trật tự.
Ngoài ra, Tả Tông Đường cũng ra lệnh cho quân sĩ của ông tu sửa các hệ thống thủy lợi, đắp đường và trồng cây. Trong suốt chiến dịch này, quân của ông đã khai phá được hơn 19.000 mẫu, trồng 568.000 cây, làm được 96 cái cầu, đắp 800 dặm đường và sửa 13 hệ thống dẫn nước và sông rạch. Những công trình đó không những khiến cho cuộc chinh phạt thành công mà còn giúp cho phục hồi được trật tự chính trị và xã hội - kinh tế thời hậu chiến. Chiến lược đó đã có ảnh hưởng đáng kể trên hệ thống quân sự hiện đại.
Để có quân phí, Tả Tôn Đường vay tiền Ngân hàng Hối Phong Hồng Kông Thượng Hải, giao cho Hồ Tuyết Nham lo liệu vật tư và quân trang cần thiết cho đội quân Tây chinh, cấp cho ông khoản tiền tiếp vận; cơ hội thứ tư là lệnh cho ông nhập vũ khí hiện đại cần thiết từ bên ngoài để thu phục Tân Cương.
Tả Tôn Đường chỉnh đốn quân vụ, những ai không muốn tham gia quân Tây chinh đều được trở về quê, còn những ai ở lại phải chấp hành nghiêm minh kỷ luật không được tự ý dời doanh trại. Tả Tôn Đường lệnh cho Lưu Cẩm Đường chiêu mộ thêm tinh binh từ Hồ Nam nâng tổng số người gốc Hồ Nam trong quân Tây chinh lên tới 17.000 người, cộng thêm 16 đạo quân của Trương Diệu tạo thành lực lượng chủ lực của quân Tây chinh, tiếp theo quân Thục, quân Hoài cũng gia nhập đội quân Tây chinh, nâng tổng số quân lên tới 8 vạn người.
Năm 1873 Tả Tôn Đường thành lập Lan Châu cơ khí cục, cải tạo quân khí theo kiểu của Đức, mua hàng ngàn súng trường và đại bác của hãng Krupp.
Tả Tông Đường Tây chinh
Tả Tông Đường thành lập quân Tây chinh gồm nhiều sắc tộc Hán, Mãn, Hồi. Quân Hán và Hồi do Đổng Phúc Tường chỉ huy, quân Mãn do Ngạc Nhĩ và Khánh Nhạc chỉ huy. Tả Tông Đường giáo dục tinh thần chiến đấu cho binh sĩ ông nói "Tân Cương từ thời Hán đã thuộc về Trung Quốc, còn người A Cổ Bá chỉ là dị tộc. Cuộc chiến tranh này là để thu hồi biên cương cho Tổ quốc vì thế các tướng sĩ phải có ý thức quân dân một nhà".Tiến chậm nhưng hành động nhanh: Để cho phù hợp với sự khó khăn của tiếp liệu, Tả Tông Đường phải chọn một chiến lược đặc biệt. Chiến lược đó gọi là Hoãn Tiến Tốc Chiến nghĩa là "di chuyển chậm nhưng quyết định nhanh trong chiến đấu". Nói một cách khác, chiến lược của ông là dùng nhiều thời gian để chuẩn bị cho các hành động quân sự. Ông chỉ dùng lực lượng sau khi tiếp liệu đã đầy đủ. Khi mọi sự sẵn sàng, ông tấn công nhanh vào những vị trí đã chọn và tiêu diệt địch càng nhanh càng tốt. Cho nên, về phương diện chiến lược là một cuộc chiến kéo dài nhưng trên phương diện chiến thuật là một chuỗi các cuộc tấn công nhanh và chắc chắn vào kẻ thù.
Trước khi đại bác được dùng rộng rãi trong chiến tranh, chiến thuật cốt yếu của Trung Hoa muốn chiếm một vị trí hiểm yếu là bao vây rồi cắt đường lương thực nhiều tháng hay năm cho địch chết đói và làm cho họ phải ra ngoài đánh. Chiến lược bao vây kéo dài này được dùng nhiều trong các chiến dịch đánh giặc Thái Bình của Tăng Quốc Phiên. Chẳng hạn như khi đánh Nam Kinh, thủ phủ của giặc Thái Bình, Tăng Quốc Thuyên đã dùng khoảng 50,000 quân bao vây thành trì kiên cố này hơn 2 năm trước khi hạ được thành năm 1864 khi quân Thái Bình phải phá vòng vây.
Nếu Tả Tông Đường dùng chiến thuật tương tự như thế trong chiến dịch chinh phạt ông sẽ gặp khó khăn rất nhiều về việc tiếp vận. Vì thế ông phải chọn chiến thuật đánh nhanh. Chiến thuật phối hợp hành động của nhiều đơn vị trong chiến đấu là một phương pháp xuất sắc để thực hiện việc đánh nhanh trong cả chiến dịch. Tả Tông Đường thường tập trung đại pháo và kỵ binh vào những mặt trận chính phối hợp với bộ binh. Đánh ban đêm và đánh bất ngờ là những chiến thuật tiêu biểu dùng trong những trận quyết định.
Pháo binh cũng đã được nhóm Vạn Thắng quân dùng nhiều trong chiến tranh ở Trung Hoa thời đó để chống Thái Bình Thiên Quốc. Tương quân cũng theo cách đó. Tuy nhiên không một lực lượng nào của Trung Hoa đã dùng nhiều trong chiến đấu để sau này thành một chiến thuật mới đáng kể như về sau này. Chiến thuật tiêu biểu của quân đội Tả Tông Đường để chiếm các vị trí kiên cố là đem đại pháo ra trước lúc trời tối cho thật gần rồi bắn phá trước khi trời sáng.
Sau khi oanh kích sẽ tấn công bất thình lình bằng bộ binh. Thường thì họ chiếm được chiếc đồn đổ nát ấy mà không mấy thiệt hại.
Việc phối hợp hành động trong hành quân và việc dùng nhiều đại pháo để tấn công đã giảm được nhiều thời gian chiến đấu và cả chiến dịch chinh phạt.
Theo Lư Phụng Các, Tả Tông Đường dùng khoảng 6 năm để chuẩn bị cho việc tây chinh nhưng ông chỉ mất một năm rưỡi là hoàn thành việc thu hồi cả Tân Cương ngoại trừ Y Lê vẫn do Nga chiếm đóng và chỉ trả lại cho Trung Hoa sau khi thương thuyết một thời gian dài.
Sau một thời gian chuẩn bị kỹ càng, tháng 3 năm 1876 Tả Tôn Đường đặt bộ tư lệnh quân Tây chinh ở Túc Châu. Tháng 8 năm 1876, quân Thanh bắt đầu xuất phát với phương châm tiến chậm đánh thắng. Binh sĩ hành quân hơn 2 tháng vượt 2.000 dặm gặp địch là đánh, khẩu phần ăn chỉ có 8 ngày nên trong hành trang ai cũng phải mang theo khoai lang. Mỗi binh sĩ đeo mười mấy cân khoai chạy trên sa mạc nóng bỏng, tinh thần chiến đấu hy sinh quên mình. Quân Thanh do Lưu Cẩm Đường Đạo đài Tây Ninh chỉ huy tiếp cận thành Ô Lỗ Mộc Tề đến tháng 11 thì công hãm thành Mã Nạp Tư Nam (Manasi), tiêu diệt quân A Cổ Bá ở dải biên giới phía bắc, sau đó quân Thanh từ Ô Lỗ Mộc Tề tiến xuống phía nam công hãm thành Đạt Bản, nơi A Cổ Bá tập trung nhiều quân tinh nhuệ, tiêu diệt quân chủ lực của A Cổ Bá tại đây. Sau đó quân Thanh do Trương Diệu chỉ huy tiến đến Khắc Thác Khắc Tôn, Thổ Lỗ Phan. A Cổ Bá tại Khố Nhĩ Lạc (Korla) thế cùng phải tự sát. Tháng 1 năm 1878, Đổng Phúc Tường chiếm lại Vu Điền. Quân Thanh liên tiếp thu hồi các thành Khố Xa, A Khắc Tô (Aksu), Hòa Văn… đến năm 1878 biên giới phía nam hoàn toàn thuộc về Trung Quốc.
Chiếm được Y Lê
Y Lê (Ili) là tên gọi một vùng đất xung quanh lưu vực sông Y Lê (Ili river). Sông này bắt nguồn trong dãy núi Thiên Sơn, chảy về phía đông một đoạn ngắn rồi đột ngột quay về phía tây, sau đó vượt hơn một nghìn cây số trước khi đổ vào hồ Balkhash. Miền Y Lê nằm về phía bắc dãy Thiên Sơn, cư dân chủ yếu là người Uyghur (Duy Ngô Nhĩ) và người Kazazh (Cáp Tát Khắc). Dưới thời nhà Thanh, miền Y Lê hoàn toàn thuộc về Trung Quốc; người Nga chiếm Y Lê năm 1871, sau đó vài năm Tả Tông Đường chiếm lại một nửa phía đông Y Lê. Biên giới hai nước được định lại như ngày nay vào năm 1881, và ngày nay miền Y Lê xưa kia nằm trên lãnh thổ nước Kazakhstan và miền tự trị Tân Cương thuộc Trung Quốc. Do nằm về phía bắc dãy Thiên Sơn, nên miền Y Lê đời Thanh còn thường được gọi là Thiên Sơn Bắc Lộ. Thực ra vùng đất Y Lê đã nằm dưới ảnh hưởng Trung Quốc từ thời nhà Hán, nhà Đường, khi ấy thường gọi là Luân Đài (là tên cũ của Urumqi). Trong các bài thơ Đường tả cảnh biên tái thường nhắc đến miền này với những cảnh hoang vu gió tuyết. Sầm Tham có câu: "Luân Đài đông môn tống quân khứ, khứ thì tuyết mãn Thiên Sơn lộ", hùng tráng tuyệt vời! Vào thời Tống, Nguyên, Minh, Trung Quốc không kiểm soát được miền này. Vào thời nhà Thanh, Y Lê là miền đất xa nhất về phía tây thuộc về Trung Quốc, thủ phủ là Ô Lỗ Mộc Tề (Urumqi). Thời nhà Thanh hay nghe cụm từ "đày đi Y Lê", đó là một hình phạt nặng, vì đi từ Bắc Kinh đến Y Lê phải mất vài tháng mới tới nơi.Năm 1871 Nga viện cớ thu hồi những vùng đất trước đây đã bị nhà Thanh chiếm, tiến quân vào Y Lê (I-Li), tuyên bố "tạm chiếm Y Lê, đợi khi nào Thanh đình có đủ khả năng thống trị miền đó thì sẽ trả lại". Nhưng 7 năm sau khi Tả Tôn Đường đã bình định được Tân Cương rồi, nhà Thanh xin Nga trả lại Y Lê, Nga thản nhiên nuốt lời, bắt Công sứ Sùng Hậu của nhà Thanh phải kí Điều ước Livadia năm 1879 gồm 18 khoản mà các khoản chính là Thanh phải bồi thường quân phí 280 vạn lạng bạc cho Nga, và cắt nhường Nga miền phú nguyên duy nhất của Y Lê chiếm tới 70% diện tích của Y Lê, cho Nga mở 3 tuyến đường thương mại làm cho dư luận triều đình và dân chúng bất bình. Trương Chi Động dâng sớ phản đối kịch liệt. Từ Hi Thái Hậu lúc đó cầm quyền, không chịu, bãi nhiệm chức vụ của Sùng Hậu, chuẩn bị chiến tranh với Nga, cung cấp thêm 25,6 triệu lạng bạc chiến phí cho Tả Tôn Đường.
Mùa hè năm 1880 Tả Tôn Đường lúc đó đã 68 tuổi điều quân từ Túc Châu tấn công Cáp Mật, sĩ khí quân Thanh rất cao. Thế tấn công của quân Thanh đã hỗ trợ rất nhiều cho ngoại giao nhà Thanh đàm phán với Nga.
Nhờ vào tài năng của nhà ngoại giao Tăng Kỷ Trạch (Công sứ Trung Hoa tại Anh và Pháp) vào ngày 24 tháng 2 năm 1881, hai nước ký kết bản Hiệp ước tại St. Petersburg, theo đó Nga bị bắt buộc hoàn trả cho Trung Hoa một số phần đất chiến lược nằm trong vùng Ili, sau khi đã bị nhượng bởi chữ ký không được cố vấn tốt của Công sứ Sùng Hậu trong Điều ước Livadia năm 1879. Sự thành công vào dịp này của Tăng Kỷ Trạch một phần nhờ ở sự chiến thắng quân sự của Tả Tôn Đường tại Tân Cương và ở sự hậu thuẫn mãnh liệt của Tả Tôn Đường và các nhân vật khác trong các cuộc thương thảo tại Nga.
Sau khi dẹp yên các cuộc khởi nghĩa Tả Tôn Đường đề xuất lên triều đình nhiều chủ trương chính sách thúc đẩy kinh tế văn hóa vùng Tân Cương có tác dụng tích cực đối với việc khai phá vùng biên giới, thành lập các cơ sở sản xuất kiểu mới ở vùng Tây Bắc như: Lan Châu cơ khí chức ni cục (là xưởng dệt len cơ khí đầu tiên của Trung Quốc dùng máy móc của Đức, thành lập năm 1878), Tổng cục tơ tằm A Khắc Tô, Lan Châu chế tạo cục thành lập năm 1871, Tây An cơ khí cục thành lập năm 1869. Nhờ công lao này, Tả Tôn Đường được thăng tước hầu, bổ nhiệm Quân cơ đại thần.
Thời kỳ Dân Quốc
Quốc kỳ của Đệ nhất Cộng hòa Đông Turkestan, chính thể chỉ tồn tại từ 1933-1934 tại khu vực quanh Kashgar.
Khởi nghĩa Cáp Mật và các cuộc khởi nghĩa khác chống lại người kế nhiệm là Kim Thụ Nhân (金树仁) đã diễn ra vào đầu thập niên 1930 trên khắp Tân Cương, với sự tham gia của người Duy Ngô Nhĩ cùng các sắc dân Đột Quyết khác, cũng như người Hồi. Kim Thụ Nhân đã dùng Bạch vệ để dập tắt cuộc khởi nghĩa. Tại vùng Kashgar vào ngày 12 tháng 11 năm 1933, Cộng hòa Đông Turkestan đã tuyên bố thành lập, sau khi có những tranh luận về việc quốc hiệu nên là "Đông Turkestan" hay "Uyghuristan." Khu vực Cộng hòa Đông Turkistan về mặt lý thuyết bao gồm Kashgar, Khotan và Aksu ở tây nam Tân Cương. Sư đoàn 36 của quân đội Quốc Dân đảng gồm hầu hết là người Hồi đã tiêu diệt quân đội của Đệ nhất Cộng hòa Đông Turkestan trong trận Kashgar (1934), nước Cộng hòa chấm dứt tồn tại sau khi quân Hồi hành quyết hai Emir của Cộng hòa là Abdullah Bughra và Nur Ahmad Jan Bughra. Liên Xô đã xâm lược Tân Cương vào năm 1934. Trong Chiến tranh Tân Cương (1937), toàn bộ tỉnh nằm dưới quyền kiểm soát của quân phiệt Tây Bắc Thịnh Thế Tài, ông cai quản Tân Cương trong thập niên sau đó với sự ủng hộ mật thiết từ Liên Xô. Liên Xô duy trì một căn cứ quân sự tại Tân Cương và triển khai một số cố vấn quân sự và kinh tế tại khu vực. Thịnh Thế Tài đã mời một nhóm người Cộng sản Trung Quốc đến Tân Cương, bao gồm em của Mao Trạch Đông là Mao Trạch Dân, song vào năm 1943 do lo sợ sẽ xảy ra một âm mưu, Thịnh Thế Tài đã cho hành quyết những người cộng sản này, bao gồm cả Mao Trạch Dân.
1949–nay
Thời Liên Xô (1949-1991)
Đệ nhị Cộng hòa Turkestan tồn tại từ năm 1944 đến 1949 với sự giúp đỡ của Liên Xô tại khu vực nay là châu Ili ở bắc bộ Tân Cương. Nước cộng hòa này chấm dứt tồn tại khi Quân Giải phóng Nhân dân Trung Quốc tiến vào Tân Cương năm 1949. Năm nhà lãnh đạo của nước cộng hòa đã thiệt mạng trong một tai nạn máy bay trong không phận nước Cộng hòa Xã hội chủ nghĩa Xô viết Kazakhstan vào năm 1949, trước khi họ có thể đàm phán tình trạng cuối cùng của Đông Turkestan với chính quyền Bắc Kinh. Tướng người Hồi Bạch Sùng Hy của Quốc Dân đảng đã ngăn ngừa việc Liên Xô tràn ngập Tân Cương bằng cách giải tán binh lính.Khu tự trị Duy Ngô Nhĩ Tân Cương được thành lập vào ngày 1 tháng 10 năm 1955, thay thế tỉnh Tân Cương
Vụ thử thử nghiệm vũ khí hạt nhân đầu tiên của Trung Quốc được tiến hành tại Lop Nur, Tân Cương, vào ngày 16 tháng 10 năm 1964. Một nhà nghiên cứu Nhật Bản suy đoán rằng có thể đã có từ 100.000 đến 200.000 người thiệt mạng do bức xạ từ vụ thử nghiệm hạt nhân, mặc dù khu vực Lop Nur đã không có người định cư lâu dài từ thập niên 1920 Phương tiện truyền thông Trung Quốc phản bác kết luận này song không cung cấp con số thay thế
Trong chia rẽ Trung-Xô, tình trạng căng thẳng giữa hai bên đã dẫn đến các vụ xung đột biên giới có đổ máu và ủng hộ kẻ thù của đối phương. Khi những người cộng sản Afghanistan thân Liên Xô đoạt lấy quyền lực vào năm 1978, mối quan hệ giữa Trung Quốc và những người cộng sản Afghanistan nhanh chóng chuyển sang thù địch. Những người cộng sản thân Liên Xô Afghanistan ủng hộ Việt Nam trong cuộc xung đột với Trung Quốc và cáo buộc Trung Quốc hỗ trợ các chiến sĩ chống cộng Afghanistan. Trung Quốc phản ứng với việc Liên Xô xâm chiếm Afghanistan bằng việc ủng hộ các chiến binh Mujahideen Afghanistan và thiết lập sự hiện diện quân sự gần Afghanistan tại Tân Cương. Trung Quốc mua thiết bị quân sự từ Hoa Kỳ để phòng vệ trước Liên Xô.
Từ năm 1992-nay
Vào những năm sau khi Nga ra đời, Tổng thống Nga Boris Yeltsin khi đó đã thực hiện cuộc cải tổ quan hệ Nga-Trung mà Gorbachyov từng làm. Tuy vậy, dưới thời Boris Yeltsin, quan hệ Nga-Trung vẫn nảy sinh bất đồng về người Duy Ngô Nhĩ, khi chính phủ thân phương Tây của Yeltsin cáo buộc Trung Quốc "đàn áp sắc dân thiểu số". Trung Quốc không đồng ý và nhiều lần gây tranh cãi với chính phủ Yeltsin, bất chấp Nga vẫn có được sự ủng hộ của Trung Quốc và phương Tây về vấn đề Chechnya, một xứ quốc ly khai ở phía nam nước Nga vùng Kavkaz. Song, khi Vladimir Putin lên cầm quyền từ năm 2000, chính phủ Nga ủng hộ Trung Quốc về vấn đề Tân Cương, và phản đối người Duy Ngô Nhĩ "gây bạo loạn" vào năm 2009. Tuy vậy, Nga vẫn cho phép người Duy Ngô Nhĩ lưu vong lẩn trốn ở Nga.Chính trị
Hệ thống chính trị Tân Cương được tổ chức theo mô hình thời Xô viết với một chút thay đổi mang chất Trung Quốc. Chủ tịch khu tự trị thường là người bản địa trong khi đứng đầu là Bí thư Tỉnh ủy vùng thường là người dân tộc khác (chủ yếu là người Hán).Tôn giáo
Hiện nay, Tân Cương vẫn là một khu vực gồm nhiều tôn giáo, nhưng Đạo Hồi vẫn có ảnh hưởng lớn trong đời sống xã hội của Tân Cương. Hiện nay, toàn khu vực Tân Cương tổng cộng có hơn 23 nghìn Thánh đường Hồi giáo và nơi tổ chức hoạt động tôn giáo khác như: chùa Lạt-ma, nhà thờ Thiên chúa giáo v.v, đáp ứng đầy đủ nhu cầu của cư dân các dân tộc theo đạo. Tổ chức tôn giáo của Tân Cương chủ yếu có Hiệp hội Hồi giáo, Học viện kinh Islam, Hiệp hội Phật giáo v.v.Hiện nay tại Tân Cương, khoảng 10 dân tộc trở lên trong đó có người Uyghur (chủ yếu), người Kazakh, người Hồi, người Iran, người Tạng Hồi giáo, người Mông Cổ, người Tatar, người Kyrgyz, người Pakistan, người Tajik, người Uzbek v.v đều theo đạo Hồi, quần chúng theo đạo hơn 10 triệu người, chiếm 56,3% dân số Tân Cương.
Người Mông Cổ ở Tân Cương đa số theo Phật giáo Tây Tạng và một số theo Hồi giáo (do chịu ảnh hưởng từ dân Trung Á), tổng cộng có khoảng 80 nghìn người, Tân Cương có 40 chùa Phật giáo Tây Tạng, gần 30 nghìn người theo Cơ Đốc giáo với 24 nhà thờ. Hiện nay Tân Cương có hơn 4000 người theo Thiên Chúa giáo, 25 nhà thờ và nơi hoạt động Thiên Chúa giáo. Ngoài ra, Tân Cường còn có hơn 100 người Nga theo Chính Thống giáo, có hai nhà thờ.
Giao thông vận tải
Nói chung giao thông vận tải ở Tân Cương gặp nhiều trở ngại do thời tiết khắc nghiệt, điều kiện hoang mạc ở vùng này. Hiện nay, các tuyến đường cao tốc xuyên Tân Cương đang được xây dựng để trở thành những tuyến đường huyết mạch phục vụ dầu mỏ và an toàn giao thông trong vùng. Song tình hình khắc nghiệt vẫn cản trở hoạt động phát triển giao thông ở đây.Tây Tạng
Bách khoa toàn thư mở Wikipedia
Bài này viết về Tây Tạng về mặt dân tộc-văn hóa. Đối với bài về khu vực hành chính của Trung Quốc, xem Khu tự trị Tây Tạng. Đối với bài về các định nghĩa khác, xem Tây Tạng (định hướng).
Tây Tạng (chữ Tây Tạng: བོད་; Wylie: Bod, phát âm tiếng Tạng: [pʰø̀ʔ]; tiếng Trung: 藏區 / Tạng khu) là một khu vực cao nguyên tại châu Á, ở phía bắc-đông của dãy Himalaya, thuộc Cộng hòa Nhân dân Trung Hoa. Đây là quê hương của người Tạng cũng như một số dân tộc khác như Môn Ba, Khương, và Lạc Ba, và hiện nay cũng có một lượng đáng kể người Hán và người Hồi sinh sống. Tây Tạng là khu vực có cao độ lớn nhất trên Trái Đất, với độ cao trung bình là 4.900 mét (16.000 ft).| <div" cellpadding="0"> |
|||||||||
| Khu tự trị Tây Tạng tại Cộng hòa Nhân dân Trung Hoa | |||||||||
| "Đại Tạng"; phạm vi Tây Tạng theo định nghĩa của các nhóm người Tạng lưu vong | |||||||||
| Các khu vực người Tạng theo xác định của chính quyền Trung Quốc | |||||||||
| Khu vực do Trung Quốc quản lý, Ấn Độ tuyên bố chủ quyền và xem như thuộc về Aksai Chin | |||||||||
| Khu vực Ấn Độ quản lý, Trung Quốc tuyên bố chủ quyền và xem như thuộc về Khu tự trị Tây Tạng | |||||||||
| Các khu vực khác về mặt lịch sử nằm trong phạm vi của văn hóa Tạng | |||||||||
Kinh tế Tây Tạng chủ yếu là nông nghiệp tự cấp, song du lịch cũng trở thành một ngành kinh tế nổi lên trong các thập niên gần đây. Tôn giáo chủ yếu ở Tây Tạng là Phật giáo Tây Tạng, cùng với đó là tôn giáo bản địa Bön (Bön ngày nay tương đồng với Phật giáo Tây Tạng ) cùng với các thiểu số Hồi giáo và Cơ Đốc giáo. Phật giáo Tây Tạng có ảnh hưởng mang tính chủ yếu đối với nghệ thuật, âm nhạc, lễ hội của khu vực. Kiến trúc Tạng phản ánh ảnh hưởng từ kiến trúc Hán và kiến trúc Ấn. Các loại lương thực chủ yếu tại Tây Tạng là đại mạch, thịt bò Tạng, và trà bơ.
Từ nguyên
Người Tạng gọi vùng đất của họ là Bod བོད་</noinclude>, mặc dù ban đầu nó chỉ có nghĩa là chỉ vùng trung bộ quanh Lhasa- nay được gọi là Ü trong tiếng Tạng. Cách phát âm trong tiếng Tạng tiêu chuẩn của từ Bod, [pʰøʔ˨˧˨], được chuyển tự thành Bhö theo phương pháp Tournadre, Bö theo phương pháp THL, và Poi theo bính âm tiếng Tạng. Một số học giả cho rằng các văn bản đầu tiên đề cập đến Bod "Tây Tạng" là những miêu tả về người Bautai trong các tác phẩm Chuyến đi vượt Hồng Hải (thế kỷ 1 CN) và Geographia (Ptolemy, thế kỷ 2 CN), bản thân nó lại có nguồn gốc từ Bhauṭṭa trong tiếng Phạn.
Từ "Tây Tạng" trong tiếng Hán bắt nguồn từ việc hoán dụ tên gọi khu vực Tsang quanh Shigatse, cộng thêm tiền tố "Tây". Con người, ngôn ngữ, và văn hóa Tây Tạng đến từ bất cứ nơi đâu cũng đều được gọi là "Tạng", song khái niệm địa lý của Tây Tạng tại Trung Quốc nay thường chỉ giới hạn trong Khu tự trị Tây Tạng. Thuật ngữ Tây Tạng được đặt ra dưới thời Gia Khánh Đế (1796–1820).
Tên Thổ Phồn lần đầu tiên được viết bằng Hán tự bằng "土番" vào thế kỷ 7 (Lý Thái) và bằng 吐蕃 vào thế kỷ 10 (Đường thư mô tả sứ thần năm 608–609 do Tán phổ Nang Nhật Luân Tán phái đến chỗ Tùy Dạng Đế). Trong tiếng Hán Trung cổ, do William H. Baxter tái dựng, 土番 được đọc là thux-phjon và 吐蕃 được đọc là thux-pjon (với x thể hiện thanh điệu). Các tên tiếng Hán khác dùng để chỉ Tây Tạng bao gồm Ô Tư Quốc (烏斯國), Ô Tư Tạng (烏斯藏), Đồ Bá Đặc (圖伯特), và Đường Cổ Thắc (唐古忒).
Ngôn ngữ
Các nhà ngôn ngữ học thường xếp tiếng Tạng là một ngôn ngữ thuộc Ngữ hệ Hán-Tạng, mặc dù ranh giới giữa "tiếng Tạng" với các ngôn ngữ Himalaya khác có thể không rõ ràng. Theo Matthew Kapstein:Theo quan điểm của ngôn ngữ học lịch sử, tiếng Tạng tương đồng nhất với tiếng Miến Điện trong số các ngôn ngữ lớn tại châu Á. Nhóm hai ngôn ngữ này cùng với các ngôn ngữ khác dường như có liên hệ ở vùng đất Himalaya, cũng như ở vùng cao của Đông Nam Á và các khu vực ranh giới giữa Hán-Tạng, các nhà ngôn ngữ học nói chùng kết luận rằng có sự tồn tại của một họ ngôn ngữ Tạng-Miến. Gây nhiều tranh cãi hơn là việc nhóm ngôn ngữ Tạng-Miến được cho là một phần của một họ ngôn ngữ lớn hơn là ngữ hệ Hán-Tạng, qua đó tiếng Tạng và tiếng Miến là họ hàng xa của tiếng Hán.
Trẻ em người Tạng ở Kham, trong một lễ hội ngựa
Mặc dù khẩu ngữ tiếng Tạng thay đổi tùy theo khu vực, song văn viết tiếng Tạng dựa trên ngôn ngữ Tạng cổ điển thì đồng nhất rộng khắp. Điều này có thể là do ảnh hưởng lâu dài của Thổ Phồn. Tiếng Tạng có chữ viết riêng, chung với tiếng Ladakh và tiếng Dzongkha, có nguồn gốc từ chữ Brāhmī từ Ấn Độ cổ đại.
Lịch sử
Tán phổ Tùng Tán Cán Bố
Bản văn tiếng Tạng lâu đời nhất xác định văn hóa Tượng Hùng (Zhangzhung) là của một nhóm người nhập cư từ khu vực Amdo đến nơi mà nay là Guge ở tây bộ Tây Tạng. Tượng Hùng được đánh giá là khởi nguồn ban đầu của tôn giáo Bön. Vào thế kỷ 1 TCN, một vương quốc láng giềng nổi lên ở thung lũng Yarlung, và quốc vương Yarlung là Drigum Tsenpo (Chỉ Cống Tán Phổ) cố gắng loại bỏ ảnh hưởng của Tượng Hùng bằng việc trục xuất các giáo sĩ Bön khỏi Yarlung Ông bị ám sát và Tượng Hùng vẫn tiếp tục tống trị khu vực cho đến khi bị Songtsen Gampo (Tùng Tán Cán Bố) sáp nhập vào thế kỷ thứ 7.
Trước thời Tùng Tán Cán Bố, các quân chủ Tây Tạng mang tính thần thoại hơn là thực tế, và không có đủ bằng chứng về việc họ có thực sự tồn tại hay không
Thổ Phồn
Lịch sử của một Tây Tạng thống nhất bắt đầu dưới triều đại của Tùng Tán Cán Bố, ông thống nhất các lãnh thổ ở thung lũng sông Yarlung và lập nên Đế quốc Thổ Phồn. Ông cũng tiến hành nhiều cải cách và Thổ Phồn nhanh chóng khuếch trương thế lực rồi trở thành một đế quốc hùng mạnh. Tương truyền, phối ngẫu đầu tiên của ông là Công chúa Bhrikuti của Nepal, và bà đóng một vai trò rất lớn trong việc hình thành đức tin Phật giáo tại Tây Tạng. Năm 640, Tùng Tán Cán Bố kết hôn với Văn Thành công chúa, cháu gái của Đường Thái TôngDưới thời một số vị quân chủ tiếp theo, Phật giáo trở thành quốc giáo và thế lực của Thổ Phồn thậm chí còn bao trùm lên nhiều khu vực rộng lớn ở Trung Á, từng thực hiện các cuộc xâm nhập lớn vào lãnh thổ Đại Đường, thậm chí từng tiến đến kinh sư Trường An vào cuối năm 763. Tuy nhiên, Thổ Phồn chỉ cò thể chiếm được Trường An trong 15 ngày, sau đó họ bị liên minh Đường cùng Hồi Cốt đánh bại.
Vương quốc Nam Chiếu nằm dưới quyền kiểm soát của Thổ Phồn từ năm 750 đến 794, người Nam Chiếu sau thoát khỏi quyền bá chủ của Thổ Phồn và giúp Đường đánh bại Thổ Phồn.
Năm 747, uy thế của Thổ Phồn bị lung lay do chiến dịch của tướng Đường Cao Tiên Chi, người này muốn tái lập tuyến đường thông thương trực tiếp giữa Trung Á và Kashmir. Năm 750, Thổ Phồn mất hầu hết thuộc địa ở Trung Á vào tay Đường. Tuy nhiên, sau khi Cao Tiên Chi thất bại trước vương triều Abbas của người Ả Rập trong trận Talas (751) và Đường xảy ra nội loạn, ảnh hưởng của Đường suy giảm nhanh chóng và ảnh hưởng của Thổ Phồn được phục hồi.
Vào năm 821/822, Thổ Phồn và Đường ký kết hòa ước, trong đó xác định chi tiết biên giới giữa hai bên, chùng được khắc song ngữ trên một cột đá nằm bên ngoài chùa Đại Chiêu (Jokhang) ở Lhasa. Thổ Phồn tiếp tục duy trì vị thế là một đế quốc Trung Á cho đến giữa thế kỷ thứ 9, khi một cuộc nội chiến tranh giành quyền kế vị dẫn đến sự sụp đổ của Thổ Phồn. Thời kỳ sau đó, Thổ Phồn bị phân liệt giữa các quân phiệt và bộ lạc, không có quyền lực tập trung.
Thời Nguyên
Triều Nguyên quản lý Tây Tạng thông qua Tuyên Chính Viện- cơ quan hành chính cao nhất tại Tây Tạng. Một trong số các mục đích của cơ quan này là chọn ra một "dpon-chen" (bản thiền), thường do Lạt-ma bổ nhiệm và được hoàng đế Nguyên ở Bắc Kinh xác nhận. Lạt ma của Tát-ca phái duy trì quyền tự chủ ở một mức độ nhất định, nắm thẩm quyền về mặt chính trị của khu vực, còn Bản thiền thì nắm giữ quyền hành pháp và quân sự. Sự cai trị của người Mông Cổ đối với Tây Tạng là riêng biệt so với các tỉnh khác tại Trung Quốc bản thổ. Nếu Lạt-ma của Tát-ca phái xảy ra xung đột với Bản thiền, Bản thiền có quyền đem quân đến khu vựcNgười Tây Tạng duy trì thẩm quyền hư danh đối với các vấn đề tôn giáo và chính trị khu vực, trong khi người Mông Cổ quản lý cấu trúc và hành chính tại khu vực, được củng cố bằng các can thiệp quân sự song việc này hiếm khi xảy ra. Đây là tình trạng "cấu trúc hai chính quyền" dưới trướng hoàng đế Nguyên, trong đó quyền lực chính thuộc về người Mông Cổ. Vương tử Khoát Đoan (Khuden) giành được quyền lực thế tục tại Tây Tạng vào thập niên 1240 và ủng hộ Tát Ca Ban Chí Đạt (Sakya Pandita), nơi người này tu hành trở thành thủ phủ của Tây Tạng.
Quyền kiểm soát của triều Nguyên đối với Tây Tạng kết thúc khi họ bị triều Minh lật đổ ở Trung Nguyên, và Đại Tư Đồ Giáng Khúc Kiên Tán (Tai Situ Changchub Gyaltsen) nổi dậy chống lại người Mông Cổ Sau cuộc nổi dậy, Đại Tư Đồ Giáng Khúc Kiên Tán thành lập nên triều đại Phách Mộc Trúc Ba (Phagmodrupa), và tìm cách giảm bớt ảnh hưởng của Nguyên đối với văn hóa và chính trị Tạng
Phác Mộc Trúc Ba và Đạt Lai Lạt Ma
Từ năm 1346 đến 1354, Đại Tư Đồ Giáng Khúc Kiên Tán lật đổ Tát-ca phái và lập ra triều Phách Mộc Trúc Ba. Trong 80 năm sau đó, Tông-khách-ba thành lập nên Cách-lỗ phái, các tu viện Phật giáo quan trọng như Ganden (Cam Đan), Drepung (Triết Bạng), và Sera (Sắc Lạp) được hình thành gần Lhasa.Năm 1578, Yêm Đáp Hãn (Altan Khan) của Thổ Mặc Đặc bộ Mông Cổ trao cho Sách Nam Gia Thố (Sonam Gyatso)- một Lạt-ma có địa vị cao của Cách-lỗ phái, danh hiệu Đạt-lai Lạt-ma (Dalai Lama); Dalai là từ dịch sang tiếng Mông Cổ của "Gyatso", nghĩa là "đại dương".
Những người Âu đầu tiên đến Tây Tạng là những nhà truyền giáo người Bồ Đào Nha António de Andrade và Manuel Marques vào năm 1624. Họ được Quốc vương và vương hậu nước Cổ Cách (Guge) nghênh đón, và được phép xây dựng một nhà thờ và giới thiệu đức tin Cơ Đốc giáo. Quốc vương Cổ Cách hăng hái chấp nhận Cơ Đốc giáo để đối phó với ảnh hưởng tôn giáo của Cách-lỗ phái đang phát triển mạnh và để làm đối trọng với các đối thủ tiềm năng của mình cũng như củng cố địa vị. Toàn bộ các nhà truyền giáo bị trục xuất vào năm 1745.
Thời Thanh
Triều Thanh đưa Amdo vào quyền kiểm soát của họ vào năm 1724, hợp nhất đông bộ của Kham vào các tỉnh lân cận vào năm 1728 Triều đình Thanh phái một đặc ủy viên cư dân, gọi là một Amban (ngang bang), đến Lhasa. Năm 1750, Ngang bang và phần lớn người Hán cùng người Mãn sống tại Lhasa bị sát hại trong một cuộc nổi loạn, và quân Thanh nhanh chóng tiến đến và đàn áp quân nổi dậy vào năm sau. Giống như triều Nguyên, triều Thanh kiểm soát hành chính và quân sự của khu vực, và trao cho Tây Tạng sự tự trị nhất định về mặt chính trị. Tướng quân Thanh hành hình thị chúng một số người ủng hộ quân nổi dậy, và vào năm 1723 và 1728, tiến hành các thay đổi trong cấu trúc chính trị và dự tính về tổ chức chính thức. Triều Thanh nay cho Đạt-lai Lạt-ma lãnh đạo chính quyền được gọi là Cát hạ (Kashag) song nâng cao vai trò của Ngang bang bao gồm cả việc tham gia vào các vấn đề nội bộ của Tây Tạng. Đồng thời triều Thanh cũng cho các giáo sĩ nắm những vị trí chủ chốt trong chính quyền địa phương để làm đối trọng với quyền lực của tầng lớp quý tộcTrong nhiều thập niên, Tây Tạng có được tình trạng hòa bình, song vào năm 1792, hoàng đế Thanh khiển một đội quân lớn đến Tây Tạng nhằm đánh đuổi quân Nepal xâm lược. Triều Thanh lại tái tổ chức chính quyền Tây Tạng, lần này là thông qua một bản kế hoạch gọi là "Tân đính Tây Tạng chương trình nhị thập cửu điều". Các đơn vị quân Thanh đồn trú cũng được thiết lập gần biên giới với Nepal. Tây Tạng do người Mãn thống trị trong các giai đoạn khác nhau vào thế kỷ 18, và những năm ngay sau những chỉnh lý 1792 là thời kỳ đỉnh cao của quyền lực của đại diện triều đình Thanh; song không có nỗ lực nào nhằm biến Tây Tạng thành một tỉnh của Đại Thanh
Năm 1834, Đế quốc Sikh xâm lược và thôn tính Ladakh, một khu vực thuộc văn hóa Tây Tạng mà khi đó là một vương quốc độc lập. Bảy năm sau đó, một đội quân Sikh do tướng Zorawar Singh chỉ huy tiến vào xâm chiếm tây bộ Tây Tạng từ Ladakh, khởi đầu Chiến tranh Thanh-Sikh. Một đội quân Thanh-Tạng đẩy lui quân xâm lược song sau đó bị đánh bại khi truy kích quân Sikh đến Ladakh. Chiến tranh kết thúc với việc ký kết hòa ước giữa Thanh và Sikh.
Do triều Thanh suy yếu, thẩm quyền của họ đối với Tây Tạng cũng dần suy yếu theo; đến giữa thế kỷ 19, ảnh hưởng của triều Thanh chỉ còn rất ít. Thẩm quyền của triều Thanh chỉ còn mang tính biểu tượng thay vì thực chất vào cuối thế kỷ 19 mặc dù trong thập niên 1860 người Tạng vì những lý do riêng vẫn tiếp tục lựa chọn việc nhấn mạnh thẩm quyền mang tính biểu tượng của triều Thanh và thể hiện rằng điều này có vẻ đáng kể
Thời kỳ này, Tây Tạng cũng xuất hiện một số liên hệ với Dòng Tên và Dòng Phanxicô từ châu Âu, và vào năm 1774 một nhà quý tộc người Scotland là George Bogle đến Shigatse để dò xét tiềm năng thương mại cho Công ty Đông Ấn Anh.[40] Thế kỷ 19, Đế quốc Anh xâm lấn từ miền Bắc Ấn Độ vào khu vực dãy Himalaya, Vương quốc Afghanistan và Đế quốc Nga khuếch trương ra Trung Á và họ nghi ngờ ý định của nhau đối với Tây Tạng.
Năm 1904, Anh xâm lược Tây Tạng do lo sợ rằng người Nga sẽ khuếch trương thế lực đến khu vực này, Anh hy vọng rằng việc đàm phán với Đạt-lại Lạt-ma thứ 13 sẽ có hiện quả hơn là với các đại diện của triều đình Bắc Kinh Khi quân Anh tiến đến Tây Tạng, một cuộc đối đầu vũ trang giữa hai bên dẫn đến vụ thảm sát Chumik Shenko, sau đó Francis Younghusband áp đặt một hiệp định mà sau đó bị bãi bỏ, và được thay thế bởi Hiệp ước giữa Anh Quốc và Đại Thanh vào năm 1906.
Năm 1910, triều đình Thanh khiển Triệu Nhĩ Phong đem quân đến Tây Tạng để thiết lập quyền cai quản trực tiếp của triều đình và hạ chiếu phế bỏ Đạt-lại Lạt-ma 13- người chạy trốn sang Ấn Độ thuộc Anh. Triệu Nhĩ Phong đánh bại quân Tây Tạng và trục xuất lực lượng của Đạt-lại Lạt-ma khỏi Tây Tạng.
Thời Hậu Thanh
Sau Cách mạng Tân Hợi (1911–1912) lật đổ triều Thanh và các binh sĩ Thanh cuối cùng bị áp giải ra khỏi Tây Tạng, Trung Hoa Dân Quốc xin lỗi về các hành động của triều Thanh và quyết định khôi phục tước hiệu cho Đạt-lai Lạt-ma Đạt-lai Lạt-ma từ chối bất kỳ tước hiệu nào của Trung Quốc, và ông tuyên bố cai trị một Tây Tạng độc lập Năm 1913, Tây Tạng và Mông Cổ ký hiệp định công nhận lẫn nhau Trong 36 năm sau đó, Đạt-lai Lạt-ma thứ 13 và các nhiếp chính kế tiếp ông cai quản Tây Tạng. Trong thời gian này, Tây Tạng giao chiến với các quân phiệt Trung Quốc để tranh quyền kiểm soát đối với các khu vực người Tạng tại Tây Khang và Thanh Hải (một phần của Kham và Amdo) dọc theo thượng du Trường Giang Năm 1914, chính phủ Tây Tạng ký kết điều ước Simla với Anh Quốc, nhượng Nam Tây Tạng cho Ấn Độ thuộc Anh. Chính phủ Trung Quốc tuyên bố điều ước là bất hợp pháp.Khi các nhiếp chính mắc các sơ suất trong việc cai quản vào thập niên 1930 và 1940, chính phủ Quốc dân của Trung Quốc nhân cơ hội này để khuếch trương phạm vi thế lực vào lãnh thổ Tây Tạng.
Từ năm 1950 đến nay
Sau Nội chiến Trung Quốc, Cộng hòa Nhân dân Trung Hoa tiến hành "giải phóng hòa bình Tây Tạng" vào năm 1950 và dàn xếp "Thập thất điều hiệp nghị" với chính phủ của Đạt-lai Lạt-ma thứ 14 mới đăng cơ, khẳng định chủ quyền của Trung Quốc song trao cho Tây Tạng quyền tự trị khu vực. Sau đó, trên hành trình đi lưu vong, Đạt-lai Lạt-ma thứ 14 hoàn toàn bác bỏ hiệp nghị.Sau khi chính phủ của Đạt-lai Lạt-ma chạy đến Dharamsala, Ấn Độ, trong Nổi dậy Tây Tạng 1959, họ thành lập một chính phủ lưu vong đối nghịch. Sau đó, chính phủ Bắc Kinh từ bỏ hiệp nghị và bắt đầu thực hiện các cải cách xã hội và chính trị từng bị tạm dừng. Trong Nạn đói lớn, có khoảng 200.000 đến 1.000.000 người Tây Tạng thiệt mạng, và xấp xỉ 6.000 tu viện bị phá hủy trong Cách mạng Văn hóa. Năm 1962, Trung Quốc và Ấn Độ giao chiến trong cuộc chiến ngắn ngủi do tranh chấp lãnh thổ. Mặc dù giành chiến thắng song các binh sĩ Trung Quốc vẫn rút về phía bắc của đường McMahon, Nam Tây Tạng vẫn thuộc quyền quản lý của Ấn Độ.
Năm 1980, Tổng bí thư Hồ Diệu Bang thăm Tây Tạng, và mở ra một giai đoạn tự do hóa xã hội, chính trị và kinh tế Đến cuối thập niên, các tăng ni tại tu viện Drepung và Sera bắt đầu kháng nghị và yêu cầu độc lập, do vậy chính phủ Trung ương dừng việc cải cách lại và bắt đầu một chiến dịch chống ly khai.
Địa lý
Tây Tạng nằm trên cao nguyên Tây Tạng, khu vực cao nhất thế giới.
Khí hậu ở đây rất khô suốt 9 tháng trong năm. Có những dãy núi tuyết vĩnh cửu cao 5.000-7.000 m. Các hẻm núi phía tây nhận được một lượng nhỏ tuyết mỗi năm nhưng vẫn có thể dùng được quanh năm. Nhiệt độ thấp là chủ đạo trong khu vực này, trong đó sự hoang vắng lạnh lẽo đến tẻ nhạt bởi không có một loài cây nào ngoài một vài bụi cây rậm và thấp, và gió thổi ngang qua đồng bằng khô cằn mênh mông không hề bị cản trở. Gió mùa từ Ấn Độ Dương gây ra một số ảnh hưởng ở phía đông Tây Tạng. Phía bắc Tây Tạng có nhiệt độ cao trong mùa hè và lạnh khủng khiếp về mùa đông.
Tây Tạng trong lịch sử bao gồm các khu vực sau:
- Amdo (a'mdo) ở phía đông bắc, được sát nhập vào các tỉnh Thanh Hải, Cam Túc và Tứ Xuyên của Trung Quốc.
- Kham (khams) ở phía đông, một phần của Tứ Xuyên, bắc Vân Nam và một phần của Thanh Hải.
- Tây Kham, một phần của Khu tự trị Tây Tạng.
- U (dbus), ở trung tâm, một phần của Khu tự trị Tây Tạng.
- Tsang (gtsang) ở phía tây, một phần của Khu tự trị Tây Tạng.
Bản đồ Lhasa đầu thế kỷ 19.
Kinh tế
Kinh tế của Tây Tạng chủ yếu là nông nghiệp tự cung tự cấp. Vì hạn chế trong đất trồng trọt, chăn nuôi đã phát triển như ngành nghề chính. Trong những năm gần đây, du lịch đã trở thành một ngành quan trọng, và nó được xúc tiến một cách tích cực từ phía chính quyền. Tuyến đường sắt Thanh-Tạng (青藏铁路) được xây dựng để kết nối khu vực này với phần còn lại của Trung Quốc dài 1956 km nối tỉnh Thanh Hải với Tây Tạng được Chính phủ Trung Quốc tuyên bố hoàn thành vào ngày 15 tháng 10 năm 2005.Tuyến đường sắt Thanh-Tạng
Từ ngày 1/7/2006, Trung Quốc chính thức đưa vào vận hành tuyến đường sắt cao nhất thế giới, nối thành phố Thanh Hải với vùng Tây Tạng hùng vĩ.Tuyến đường sắt lên Tây Tạng là công trình xây dựng mang công nghệ phức tạp, với đường ray đặc biệt có khả năng ổn định trong điều kiện thời tiết vô cùng khắc nghiệt. Ga đầu của tuyến đường sắt nổi tiếng này là thành phố Golmud thuộc tỉnh Thanh Hải và ga cuối là thủ phủ Lhasa của Tây Tạng.
Các toa tàu được thiết kế như khoang máy bay để bảo vệ hành khách trước độ cao quá lớn, với điểm cao nhất của công trình lên tới 5.072 mét so với mặt nước biển. Không khí bên trong được điều hòa tự động để cân bằng tại những nơi thiếu dưỡng khí mà tàu chạy qua.
Trung Quốc tuyên bố tuyến đường sắt Thanh-Tạng có tổng chi phí xây dựng 4,2 tỷ USD và dài 1.140 km này là một kỳ tích vĩ đại về công nghệ, đem lại cơ hội phát triển to lớn cho một khu vực mênh mông hùng vĩ.
Chính phủ Trung Quốc đang có kế hoạch mở rộng tuyến đường sắt cao nhất thế giới vừa được khánh thành, nhằm đưa công trình được coi là kỳ tích xây dựng này vươn tới thành phố lớn thứ hai ở Tây Tạng sau Lhasa là Xigaze.
Thành phố Xigaze cao hơn mực nước biển 3.800 mét và nằm gần biên giới với Ấn Độ. Đây là nơi ngự trị truyền thống của Ban Thiền Lạt Ma, một trong những lãnh đạo tinh thần quan trọng của Phật giáo Tây Tạng.
Xigaze còn có cách viết khác là Shigatse có dân số 80.000 người. Vùng đất này tọa lạc tại nơi hợp lưu của hai dòng sông nổi tiếng về tâm linh là Yarlong Tsangpo và Nuangchu, ở phía tây của Khu tự trị Tây Tạng.
Theo Tân Hoa xã, tuyến đường sắt sẽ được kéo dài thêm 270 km từ Lhasa tới Xigaze và hoàn thành trong vòng 3 năm. Một quan chức địa phương là Yu Yungui nhấn mạnh: "Đường sắt sẽ tạo ra cơ hội lớn cho sự phát triển kinh tế xã hội của Xigaze".
Tình trạng cách ly đặc biệt của Tây Tạng về địa lý khiến kinh tế vùng đất này nghèo nàn. Hệ thống giáo dục và tuổi thọ trung bình của người dân tại đây thấp hơn nhiều so với phần còn lại của Trung Quốc. Nhưng chính sự cách ly đó giúp bảo tồn nền văn hoá đặc trưng và lối sống không giống đâu trên thế giới này của Tây Tạng.
Sự xuất hiện của hệ thống đường sắt sẽ đem đến thay đổi dữ dội mà Bắc Kinh đánh giá là sẽ khai phá Tây Tạng, mang đến sự phồn vinh cho người dân địa phương. Nhưng những người chỉ trích công trình này thì cho rằng, nó sẽ là hồi chuông báo tử cho nền văn hoá đặc hữu của Tây Tạng.
Trước khi có đường sắt, chỉ có hai cách đến được với thủ phủ Lhasa. Đó là đáp một chuyến bay rất hao tiền để rồi dựng tóc gáy mỗi khi nó hạ cánh xuống Tây Tạng. Cách thứ hai là đi trên những chuyến xe buýt nêm chặt người và mất 3 ngày 3 đêm ròng rã trên những con đường núi nguy hiểm và tổn sức.
Nhưng rất nhiều chiếc xe như vậy cùng hành khách của nó đã kết thúc cuộc hành trình dưới một khe núi sâu nào đó có vô số trên đường.
Có nhiều ý kiến khác nhau về tác động của tuyến đường sắt đối với Tây Tạng. Nhiều người địa phương cho rằng: "Đó là một ý tưởng tốt. Nó sẽ giúp chúng tôi mang len ra thị trường dễ dàng hơn. Hiện chúng tôi phải thuê xe tải để chuyên chở, nhưng với tàu hoả nó sẽ rẻ và dễ hơn nhiều".
Tuy nhiên, các nhà môi trường học lại lo ngại về những ảnh hưởng của tuyến đường sắt đến con đường di trú của loài linh dương Tây Tạng quý hiếm. Họ cũng lo lắng cho một hệ sinh thái rất mong manh, mà một khi bị phá hỏng sẽ phải mất cả một thế hệ để sửa sai.
Dân số
Các nhóm sắc tộc ở Tây Tạng năm 1967 (Xem toàn bộ bản đồ, có bao gồm các chú dẫn)
Việc đưa ra tỷ lệ người Trung Quốc gốc Hán ở Tây Tạng là một vấn đề chính trị nhạy cảm. Trong những năm từ thập niên 1960 đến thập niên 1980, nhiều tù nhân (trên 1 triệu, theo Harry Wu) đã được đưa vào các trại cải tạo ở Amdo (Thanh Hải) và họ đã ở lại sau khi được trả tự do. Từ những năm 1980, sự tự do hóa kinh tế ngày càng tăng và những thay đổi bên trong khu vực đã tạo ra một luồng di cư của nhiều người Hán tới Tây Tạng để tìm kiếm việc làm hay định cư, mặc dù con số thực của việc di cư dân số này vẫn là điều gây tranh cãi. Chính quyền Tây Tạng lưu vong ước tính con số này là 7,5 triệu (đối lại chỉ có 6 triệu người Tạng), coi điều này như là kết quả của chính sách tích cực trong việc làm mất bản sắc dân tộc của người Tạng và thu nhỏ bất kỳ cơ hội nào của về độc lập chính trị của Tây Tạng, và như thế đã vi phạm Công ước Geneva năm 1946 là ngăn cấm việc định cư của các lực lượng chiếm đóng. Chính quyền Tây Tạng lưu vong đặt dấu hỏi trên mọi con số thống kê được đưa ra bởi CHNDTH, bởi vì họ đã không tính đến các thành viên của Giải phóng quân nhân dân đồn trú ở Tây Tạng (hoặc gia đình họ), hoặc một lượng lớn dân di cư không đăng ký. Tuyến đường sắt Thanh-Tạng (Tây Ninh tới Lhasa) cũng là sự quan ngại lớn, vì họ cho rằng nó sẽ làm thuận tiện hơn cho việc di dân.
Các hình thái tự trị của người Tạng-theo CHNDTH. Quyền tự trị thực sự của họ là đang tranh cãi.
Văn hóa-tôn giáo
Tượng những con sư tử tuyết lớn bảo vệ lối vào cung điện Potala
Đại tu viện Samye, tu viện Phật giáo đầu tiên ở Tây Tạng
Tây Tạng là trung tâm truyền thống của Phật giáo Tây Tạng, một dạng đặc biệt của Mật Tông (Vajrayana). Phật giáo đứng đầu trong các tôn giáo và mang đậm dấu ấn trong văn hóa ở Tây Tạng. Đây là nơi sinh ra Mật Tông. Một tông phái của Phật giáo với văn hóa và phong cách đa dạng như Quán Đảnh, Trì Chú cùng với các vị Đạt-Lai-Lạt-Ma (Phật sống) được nhiều người tôn thờ. Hiện nay, khu tự trị Tây Tạng tổng cộng có hơn 1700 chùa chiền tổ chức hoạt động Phật giáo Tây Tạng, có khoảng 46 nghìn tăng ni.
Phật giáo Tây Tạng không những chỉ được phổ biến ở Tây Tạng; nó còn là tôn giáo thịnh hành ở Mông Cổ và phổ biến mạnh trong tộc người Buryat ở miền nam Siberia. Tây Tạng cũng là quê hương của một tôn giáo nguyên thủy gọi là Bön (Bon). Hàng loạt các tiếng địa phương của tiếng Tạng được nói trên cả khu vực. Người Tạng viết bằng chữ Tạng.
Trong các thành phố Tây Tạng có các cộng đồng nhỏ người Hồi giáo, được biết đến như là Kachee (Kache), mà tổ tiên họ là những người di cư từ ba khu vực chính: Kashmir (đối với người Tây Tạng cổ là Kachee Yul), Ladakh và các nước của người Turk ở Trung Á. Ảnh hưởng của Hồi giáo ở Tây Tạng cũng đến từ Ba Tư. Ở đây cũng có các cộng đồng Hồi giáo Trung Quốc (gya kachee) mà tổ tiên của họ là dân tộc Hồi Trung Quốc. Người ta cho rằng những người Hồi giáo di cư từ Kashmir và Ladakh đã đến Tây Tạng vào khoảng thế kỷ 12. Dần dần các cuộc hôn nhân và các mối quan hệ xã hội đã dẫn đến sự tăng dân số thành cộng đồng đáng kể xung quanh Lhasa. Hiện Hồi giáo ở đây có 4 Thánh đường với số tín đồ theo đạo khoảng 3000 người.
Thiên Chúa giáo có 1 nhà thờ Thiên Chúa giáo với người theo đạo hơn 700 người.
Mạn đà la - Một nghệ thuật đặc thù của Phật giáo Tây Tạng
Người Duy Ngô Nhĩ
Bách khoa toàn thư mở Wikipedia
| Uyghur 维吾尔 ئۇيغۇر |
|
|---|---|
| Tổng số dân | |
| 11,37 triệu (25 triệu theo các số liệu không chính thức) | |
| Khu vực có số dân đáng kể | |
| Ngôn ngữ | |
| Uyghur | |
| Tôn giáo | |
| Hồi giáo Sunni | |
| Sắc tộc có liên quan | |
| Người Turk |
Tiếng Việt còn gọi dân tộc này là Hồi Ngột.
Đặc trưng
Trong lịch sử, tên gọi "Uyghur" được dùng để chỉ các bộ lạc nói tiếng Turk sống tại khu vực dãy núi Altay. Cùng với người Göktürk (Kokturk), người Uyghur là một trong các nhóm gốc Turk lớn nhất và tồn tại lâu nhất tại vùng Trung Á.Người Uyghur mang trong mình dòng máu pha trộn giữa đại chủng Á và đại chủng Âu. Tổ tiên của họ là người Hồi Hột từng là một thế lực đáng kể ở phía bắc Trung Quốc từ thời Đường tới thời Tống. Tôn giáo chính hiện nay của họ là Hồi giáo. Người Uyghur giỏi sản xuất nông nghiệp, làm đồ thủ công và buôn bán.
Văn hóa
Tàn tích văn hóa Uyghur được tập trung trong những bộ sưu tập lớn tại các bảo tàng ở Berlin, London, Paris, Tokyo, Sankt Peterburg và New Delhi. Cuối thế kỷ 19, đầu thế kỷ 20, các chuyến thám hiểm khoa học và khảo cổ được tiến hành tại khu vực Uyghurstan (Tân Cương) trên Con đường tơ lụa khám phá ra rất nhiều đền thờ trong hang động, di tích tu viện, tranh tường, cũng như tượng nhỏ quý báu, sách vở, tài liệu. Những nhà thám hiểm từ châu Âu, châu Mỹ và Nhật Bản tỏ ra kinh ngạc trước những tác phẩm nghệ thuật có giá trị tìm thấy ở đây. Các bản thảo và tài liệu tìm thấy ở Tân Cương (hay Uyghurstan/Đông Turkestan) cho thấy một nền văn minh phát triển cao của người Uyghur. Quyền lực, cũng như uy danh, văn hóa của người Uyghur, vốn thống trị vùng Trung Á trong hơn một ngàn năm, tuột dốc nhanh chóng sau khi nhà Thanh xâm lăng vùng đất của họ. Trong suốt quá trình lịch sử vùng Trung Á, họ để lại dấu ấn sâu sắc về cả văn hóa và truyền thống trong các dân tộc sinh sống tại đây. Nhằm ngăn ngừa sự trỗi dậy của một nền văn hóa có sức sống mãnh liệt Uyghur, chính quyền nước Trung Hoa hiện đại gồm Vương Triều Nhà Thanh, nhà Hán luôn muốn triêt để tiêu bỏ những dấu ấn của Uyghur. Sự xung đột sắc tộc, tôn giáo để đòi trở thành một nhà nước độc lập Uyghur luôn bị Nhà nước Trung Hoa nhiều lần tiêu diệt đẫm máu.Lịch sử
Thời nhà Thanh
Người Mãn, vốn là các bộ tộc bán du mục ở miền đông bắc Trung Quốc ngày nay, bành trướng mãnh liệt đế quốc Thanh mà họ lập ra vào năm 1644, sáp nhập Mông Cổ, Đông Turkistan (Tân Cương), và Tây Tạng. Quân Mãn Châu xâm chiếm Dzungaria năm 1759 và cai trị vùng này cho tới năm 1864. Trong thời kỳ này, người Uyghur vùng dậy 42 lần chống lại ách thống trị của nhà Thanh. Trong cuộc nổi dậy năm 1864, người Uyghur thành công trong việc đánh đuổi bộ máy quan lại của nhà Thanh khỏi Đông Turkistan, và thành lập vương quốc Kashgaria độc lập, gọi là Yettishar (nghĩa là "vương quốc của bảy thành phố"). Dưới sự lãnh đạo của A Cổ Bách, quốc gia này bao gồm Kashgar (Khách Thập), Yarkand (Toa Xa), Hotan (Hòa Điền), Aksu (A Khắc Tô), Kucha (Khố Xa), Korla (Khố Nhĩ Lặc) và Turfan (Thổ Lỗ Phan)). Vương quốc này được Đế quốc Ottoman công nhận năm 1873, Đế quốc Nga năm 1872, và Vương quốc Anh năm 1874, thủ đô đặt tại Kashgar.Nhà Thanh điều động một lực lượng quân lớn dưới quyền chỉ huy của tướng Tả Tông Đường tấn công Đông Turkestan năm 1876. Lo ngại khả năng Nga hoàng bành trướng sang Đông Turkestan, Anh ủng hộ quân Mãn Châu bằng cách cung cấp các khoản vay thông qua nhà băng Anh (phần lớn qua Boston Bank, HSBC đặt tại Hồng Kông). Sau cuộc xâm lược này, Đông Turkestan bị đổi tên thành "Tân Cương", nghĩa là "cương vực mới", và bị sáp nhập vào đế quốc Mãn Châu ngày 18 tháng 11 năm 1884, trở thành một tỉnh của Trung Quốc.
Thời Cộng hòa
Tới năm 1920, chủ nghĩa dân tộc của người Uyghur đã trở nên một thách thức đáng kể cho nhà Thanh, và sau đó là các lãnh chúa quân phiệt Trung Quốc thời kỳ Cộng hòa kiểm soát Tân Cương. Nhà thơ Abdulhaliq xứ Turpan, sau khi sống thời tuổi trẻ tại các trung tâm tri thức Semey (Semipalatinsk) và Jadid tại Uzbekistan, trở về Tân Cương với bút danh Uyghur. Ông viết bài thơ yêu nước Oyghan, mở đầu bằng dòng "Ey pekir Uyghur, oyghan!" (hỡi những người Uyghur khốn cùng, hãy tỉnh dậy!). Ông bị lãnh chúa người Hán là Thịnh Thế Tài xử tử tại Turpan tháng 3 năm 1933 vì tội làm dấy lên tư tưởng dân tộc của người Uyghur qua các tác phẩm của mình.Những người đấu tranh cho nền độc lập của người Uyghur tiến hành vài cuộc nổi dậy chống lại sự cai trị hậu Thanh của lãnh chúa quân phiệt Thịnh Thế Tài và Quốc dân đảng. Hai lần liền, trong các năm 1933 và 1944, người Uyghur nổi dậy nhưng đều bị thất bại trong nỗ lực thiết lập các quốc gia độc lập: Cộng hòa Đông Turkestan, và Cộng hòa Uyghurstan, hoặc là Cộng hòa Hồi giáo Đông Turkestan.
Cộng hòa Đông Turkestan có tính thế tục, xã hội chủ nghĩa và đa sắc tộc, với những người sáng lập bao gồm người Kazakh, Uzbek, Hán, Kyrgyz, Nga, cũng như Uyghur, và được Joseph Stalin ủng hộ.
Năm 1949, sau khi phe Quốc gia tại Trung Quốc thất trận, các nhà lãnh đạo Đông Turkestan chấp thuận hình thức hợp bang với Cộng hòa Nhân dân Trung Hoa dưới sự lãnh đạo của Mao Trạch Đông. Tuy nhiên, một vụ tai nạn máy bay khiến cho phần lớn ban lãnh đạo Cộng hòa Đông Turkestan tử nạn trên đường tới Bắc Kinh đàm phán điều kiện thành lập hợp bang. Vụ rơi máy bay này có lúc được cho là âm mưu của Mao Trạch Đông, vì ngay sau khi vụ tai nạn xảy ra, tướng Vương Chấn nhanh chóng hành quân vượt sa mạc vào Tân Cương, đàn áp lực lượng thân Quốc dân đảng và các cuộc nổi dậy của người thiểu số.
Bộ phận lãnh đạo còn lại của Cộng hòa Đông Turkestan dưới quyền tướng Saifuddin Azizi nhanh chóng qui thuận các điều kiện Mao Trạch Đông đặt ra, biến Tân Cương thành Khu tự trị dân tộc Duy Ngô Nhĩ Tân Cương, quân đội thì sáp nhập vào Quân giải phóng Nhân dân Trung Quốc, Saifuddin Azizi thì nắm chức vụ bí thư đảng cộng sản tại đây. Rất nhiều người trung thành với Cộng hòa Đông Turkestan, bất mãn với sự phản bội của Saifuddin, đi tị nạn tại Thổ Nhĩ Kỳ và các quốc gia phương Tây. Tuy nhiên nhiều người khác ở lại, tổ chức các hoạt động chống đối nhằm tái lập một quốc gia độc lập tại Tân Cương. Không bao lâu sau đó, tên gọi Đông Turkestan bị xóa bỏ bởi sự kiểm duyệt của chính quyền Trung Quốc.











































Nhận xét
Đăng nhận xét